Ngày 30/04: Thánh Giáo Hoàng Piô V (1504 - 1572)
Sự hoạt động không ngừng của Đức Piô trong việc canh tân Giáo Hội được dựa trên cá tính của ngài là một tu sĩ dòng Đa Minh. Ngài dành nhiều giờ để cầu nguyện với Thiên Chúa, nghiêm nhặt chay tịnh, tự thoái thác những thói quen xa hoa của giáo hoàng thời ấy và trung thành tuân giữ quy luật cũng như tinh thần của Dòng Đa Minh.
Đây là vị giáo hoàng mà công việc của ngài là thi hành nghị quyết của Công Đồng Tridentinô cách đây bốn thế kỷ. Nếu chúng ta nghĩ các giáo hoàng đương thời phải gặp những khó khăn nào trong việc thi hành nghị quyết của Công Đồng Vatican II, thì Đức Piô V lại gặp nhiều khó khăn hơn sau công đồng lịch sử đó.
Đức Piô V sinh trong một gia đình nghèo ở Bosco, nước Ý. Tên rửa tội là Antôniô Micae và vì gia đình quá nghèo nên cậu phải đi chăn cừu. Trong dịp gặp gỡ hai tu sĩ dòng Đa Minh, vì thấy sự thông minh cũng như nhân đức của cậu, họ đã xin phép gia đình đưa cậu về sống với họ, lúc ấy cậu mới 12 tuổi. Sau một thời gian tu tập, Antôniô Micae được thụ phong linh mục năm 1528, sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư triết và thần học ở Genoa. Trong mười sáu năm kế đó, Cha Micae đi khắp các cơ sở của nhà dòng để khuyến khích việc tuân giữ Quy Luật Dòng cách nghiêm nhặt qua lời nói cũng như hành động của ngài.
Năm 1555, Cha Micae được tấn phong làm Giám Mục của Nepi và Sutri, và năm 1557, ngài được nâng lên hàng Hồng Y. Năm 1566, Đức Giáo Hoàng Phaolô IV từ trần và Đức Hồng Y Micae được chọn làm người kế vị, lấy tên là Piô V.
Trong nhiệm kỳ giáo hoàng của ngài, 1566 -- 1572, Đức Piô V phải đối diện với một trách nhiệm thật lớn lao đó là phục hồi một Giáo Hội vụn vỡ và phân tán. Dân Chúa thời ấy bị rúng động bởi sự thối nát của hàng giáo sĩ, bởi cuộc Cải Cách Tin Lành, bởi sự đe dọa xâm lăng thường xuyên của người Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1545, vị giáo hoàng tiền nhiệm triệu tập Công Đồng Tredentinô nhằm cố giải quyết các vấn đề khẩn trương nói trên. Trong vòng 18 năm, các Giáo Phụ thảo luận, lên án, xác nhận và quyết định trong một chuỗi hành động. Và Công Đồng kết thúc năm 1563.
Năm 1566, Đức Piô V lên ngôi giáo hoàng và phải đảm nhận công việc cải cách tức thời do Công Đồng đưa ra. Ngài ra lệnh thành lập các chủng viện để huấn luyện các linh mục một cách thích hợp. Ngài cho công bố sách lễ mới, kinh nhật tụng mới, sách giáo lý mới và thiết lập quy chế giáo lý cho trẻ em. Đức Piô cương quyết áp dụng kỷ luật đối với những lạm dụng trong Giáo Hội. Ngài kiên trì phục vụ người nghèo và người đau yếu qua việc xây cất các bệnh viện, cung cấp thực phẩm cho người nghèo đói và lấy tiền quỹ thường để tổ chức tiệc tùng cho đức giáo hoàng mà giúp đỡ các người tân tòng nghèo ở Rôma.
Trong cố gắng cải tổ Giáo Hội và Tòa Thánh Vatican, Đức Piô gặp sự chống đối mãnh liệt của Nữ Hoàng Elizabeth của Anh và Hoàng Đế Maximilian II của Rôma. Các khó khăn ở Pháp và Hòa Lan cũng cản trở cho sự hợp nhất Âu Châu để chống với Thổ Nhĩ Kỳ. Mãi đến giây phút cuối cùng ngài mới có thể tổ chức được một đạo quân và chiến thắng ở Vịnh Lepanto gần Hy Lạp vào tháng Mười 1571.
Sự hoạt động không ngừng của Đức Piô trong việc canh tân Giáo Hội được dựa trên cá tính của ngài là một tu sĩ dòng Đa Minh. Ngài dành nhiều giờ để cầu nguyện với Thiên Chúa, nghiêm nhặt chay tịnh, tự thoái thác những thói quen xa hoa của giáo hoàng thời ấy và trung thành tuân giữ quy luật cũng như tinh thần của Dòng Đa Minh.
Đức Piô từ trần năm 1572.
Sự hoạt động không ngừng của Đức Piô trong việc canh tân Giáo Hội được dựa trên cá tính của ngài là một tu sĩ dòng Đa Minh. Ngài dành nhiều giờ để cầu nguyện với Thiên Chúa, nghiêm nhặt chay tịnh, tự thoái thác những thói quen xa hoa của giáo hoàng thời ấy và trung thành tuân giữ quy luật cũng như tinh thần của Dòng Đa Minh.
Đây là vị giáo hoàng mà công việc của ngài là thi hành nghị quyết của Công Đồng Tridentinô cách đây bốn thế kỷ. Nếu chúng ta nghĩ các giáo hoàng đương thời phải gặp những khó khăn nào trong việc thi hành nghị quyết của Công Đồng Vatican II, thì Đức Piô V lại gặp nhiều khó khăn hơn sau công đồng lịch sử đó.
Đức Piô V sinh trong một gia đình nghèo ở Bosco, nước Ý. Tên rửa tội là Antôniô Micae và vì gia đình quá nghèo nên cậu phải đi chăn cừu. Trong dịp gặp gỡ hai tu sĩ dòng Đa Minh, vì thấy sự thông minh cũng như nhân đức của cậu, họ đã xin phép gia đình đưa cậu về sống với họ, lúc ấy cậu mới 12 tuổi. Sau một thời gian tu tập, Antôniô Micae được thụ phong linh mục năm 1528, sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư triết và thần học ở Genoa. Trong mười sáu năm kế đó, Cha Micae đi khắp các cơ sở của nhà dòng để khuyến khích việc tuân giữ Quy Luật Dòng cách nghiêm nhặt qua lời nói cũng như hành động của ngài.
Năm 1555, Cha Micae được tấn phong làm Giám Mục của Nepi và Sutri, và năm 1557, ngài được nâng lên hàng Hồng Y. Năm 1566, Đức Giáo Hoàng Phaolô IV từ trần và Đức Hồng Y Micae được chọn làm người kế vị, lấy tên là Piô V.
Trong nhiệm kỳ giáo hoàng của ngài, 1566 -- 1572, Đức Piô V phải đối diện với một trách nhiệm thật lớn lao đó là phục hồi một Giáo Hội vụn vỡ và phân tán. Dân Chúa thời ấy bị rúng động bởi sự thối nát của hàng giáo sĩ, bởi cuộc Cải Cách Tin Lành, bởi sự đe dọa xâm lăng thường xuyên của người Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1545, vị giáo hoàng tiền nhiệm triệu tập Công Đồng Tredentinô nhằm cố giải quyết các vấn đề khẩn trương nói trên. Trong vòng 18 năm, các Giáo Phụ thảo luận, lên án, xác nhận và quyết định trong một chuỗi hành động. Và Công Đồng kết thúc năm 1563.
Năm 1566, Đức Piô V lên ngôi giáo hoàng và phải đảm nhận công việc cải cách tức thời do Công Đồng đưa ra. Ngài ra lệnh thành lập các chủng viện để huấn luyện các linh mục một cách thích hợp. Ngài cho công bố sách lễ mới, kinh nhật tụng mới, sách giáo lý mới và thiết lập quy chế giáo lý cho trẻ em. Đức Piô cương quyết áp dụng kỷ luật đối với những lạm dụng trong Giáo Hội. Ngài kiên trì phục vụ người nghèo và người đau yếu qua việc xây cất các bệnh viện, cung cấp thực phẩm cho người nghèo đói và lấy tiền quỹ thường để tổ chức tiệc tùng cho đức giáo hoàng mà giúp đỡ các người tân tòng nghèo ở Rôma.
Trong cố gắng cải tổ Giáo Hội và Tòa Thánh Vatican, Đức Piô gặp sự chống đối mãnh liệt của Nữ Hoàng Elizabeth của Anh và Hoàng Đế Maximilian II của Rôma. Các khó khăn ở Pháp và Hòa Lan cũng cản trở cho sự hợp nhất Âu Châu để chống với Thổ Nhĩ Kỳ. Mãi đến giây phút cuối cùng ngài mới có thể tổ chức được một đạo quân và chiến thắng ở Vịnh Lepanto gần Hy Lạp vào tháng Mười 1571.
Sự hoạt động không ngừng của Đức Piô trong việc canh tân Giáo Hội được dựa trên cá tính của ngài là một tu sĩ dòng Đa Minh. Ngài dành nhiều giờ để cầu nguyện với Thiên Chúa, nghiêm nhặt chay tịnh, tự thoái thác những thói quen xa hoa của giáo hoàng thời ấy và trung thành tuân giữ quy luật cũng như tinh thần của Dòng Đa Minh.
Đức Piô từ trần năm 1572.