Bài đọc :
Tin Mừng : Ga 18,1 - 19,42
Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
✠Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
18 1 nk Khi ấy, Đức Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kít-rôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. 2 Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. 3 Vậy, Giu-đa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu ; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. 4 Đức Giê-su biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi : ✠ “Các anh tìm ai ?” 5 nk Họ đáp : dc “Tìm Giê-su Na-da-rét.” nk Người nói : ✠ “Chính tôi đây.” nk Giu-đa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6 Khi Người vừa nói : “Chính tôi đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. 7 Người lại hỏi một lần nữa : ✠ “Các anh tìm ai ?” nk Họ đáp : dc “Tìm Giê-su Na-da-rét.” 8 nk Đức Giê-su nói : ✠ “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi.” 9 nk Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói : “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”
10 nk Ông Si-môn Phê-rô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Man-khô. 11 Đức Giê-su nói với ông Phê-rô : ✠ “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống ?”
12 nk Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại. 13 Trước tiên, họ điệu Đức Giê-su đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. 14 Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.
15 nk Ông Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16 Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. 17 Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phê-rô : m “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao ?” nk Ông liền đáp : m “Đâu phải.” 18 nk Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó ; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ. 19 Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người.
20 Đức Giê-su trả lời : ✠ “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21 Sao ông lại hỏi tôi ? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.” 22 nk Đức Giê-su vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói : m “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư ?” 23 nk Đức Giê-su đáp : ✠ “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào ; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ?” 24 nk Ông Kha-nan cho giải Người đến thượng tế Cai-pha, Người vẫn bị trói.
25 nk Còn ông Si-môn Phê-rô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông : m “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao ?” nk Ông liền chối : m “Đâu phải.” 26 nk Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém đứt tai, lên tiếng hỏi : m “Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao ?” 27 nk Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
28 nk Vậy, người Do-thái điệu Đức Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. 29 Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi : m “Các người tố cáo ông này về tội gì ?” 30 nk Họ đáp : dc “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.” 31 nk Ông Phi-la-tô bảo họ : m “Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người.” nk Người Do-thái đáp : dc “Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả.” 32 nk Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
33 nk Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người : m “Ông có phải là vua dân Do-thái không ?” 34 nk Đức Giê-su đáp : ✠ “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi ?” 35 nk Ông Phi-la-tô trả lời : m “Tôi là người Do-thái sao ? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì ?” 36 nk Đức Giê-su trả lời : ✠ “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” 37 nk Ông Phi-la-tô liền hỏi : m “Vậy ông là vua sao ?” nk Đức Giê-su đáp : ✠ “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này : làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” 38 nk Ông Phi-la-tô nói với Người : m “Sự thật là gì ?”
nk Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ : m “Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. 39 Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không ?” 40 nk Họ lại la lên rằng : dc “Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba !” nk Mà Ba-ra-ba là một tên cướp.
19 1 nk Bấy giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người. 2 Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. 3 Họ đến gần và nói : dc “Kính chào Vua dân Do-thái !”, nk rồi vả vào mặt Người.
4 nk Ông Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với người Do-thái : m “Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.” 5 nk Vậy, Đức Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Phi-la-tô nói với họ : m “Đây là người !” 6 nk Khi vừa thấy Đức Giê-su, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng : dc “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá !” nk Ông Phi-la-tô bảo họ : m “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy.” 7 nk Người Do-thái đáp lại : dc “Chúng tôi có Lề Luật ; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa.”
8 nk Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa. 9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su : m “Ông từ đâu mà đến ?” nk Nhưng Đức Giê-su không trả lời. 10 Ông Phi-la-tô mới nói với Người : m “Ông không trả lời tôi ư ? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao ?” 11 nk Đức Giê-su đáp lại : ✠ “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”
12 nk Từ đó, ông Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng : dc “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xê-da.” 13 nk Khi nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha. 14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái : m “Đây là vua các người !” 15 nk Họ liền hô lớn : dc “Đem đi ! Đem nó đi ! Đóng đinh nó vào thập giá !”
nk Ông Phi-la-tô nói với họ : m “Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao ?” nk Các thượng tế đáp : dc “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da.” 16 nk Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá.
nk Vậy họ điệu Đức Giê-su đi. 17 Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha ; 18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giê-su thì ở giữa. 19 Ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá ; bảng đó có ghi : “Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái.” 20 Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng : Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. 21 Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô : m “Xin ngài đừng viết : ‘Vua dân Do-thái’, nhưng viết : ‘Tên này đã nói : Ta là Vua dân Do-thái’.” 22 nk Ông Phi-la-tô trả lời : m “Ta viết sao, cứ để vậy !”
23 nk Đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần ; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. 24 Vậy họ nói với nhau : m “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” nk Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.
25 nk Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng : ✠ “Thưa Bà, đây là con của Bà.” 27 nk Rồi Người nói với môn đệ : ✠ “Đây là mẹ của anh.” nk Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
28 nk Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói : ✠ “Tôi khát !” 29 nk Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. 30 Nhắp xong, Đức Giê-su nói : ✠ “Thế là đã hoàn tất !” nk Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
(quỳ gối thinh lặng trong giây lát)
31 nk Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. 34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực ; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. 36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh : Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác : Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
38 nk Sau đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức Giê-su xuống. Ông Giô-xếp này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi hài Người xuống. 39 Ông Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. 40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. 41 Nơi Đức Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. 42 Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.
SUY NIỆM-SỰ CAO CẢ CỦA TÌNH YÊU
Trước khi chết, cha Don Gnochi nói với bác sĩ: “Khi tôi chết rồi, xin bác sĩ lấy hai mắt tôi để ghép cho hai đứa trẻ mù tôi đã nuôi nấng.” Quá cảm kích trước hành động của linh mục, vị bác sĩ đã quyết định hiến dâng cả cuộc đời còn lại để phục vụ những người xấu số.
Hôm nay, toàn thể Giáo hội tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu. Con Thiên Chúa đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người. Suốt cuộc đời dương thế, Đức Giêsu đã rảo quanh các làng mạc để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, cứu chữa những người đau yếu và giới thiệu về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
Hành động cao cả của tình yêu được biểu lộ qua việc Người chịu thương khó và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc con người. Nếu nhờ đôi mắt của vị linh mục mà hai đứa trẻ mù đã nhìn thấy ánh sáng; thì qua sự chết của Đức Giêsu, tất cả nhân loại được đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
(Chấm nối chấm – Học Viện Đaminh)
LỜI NGUYỆN TRONG NGÀY
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết hoán cải mỗi ngày để xứng đáng đón nhận ơn cứu độ mà Chúa đã đổ ra vì chúng con. Amen.
TU ĐỨC SỐNG ĐẠO
ĐTC Phanxicô: Những đau khổ của chúng ta có thể trở thành nguồn hy vọng
Đức Thánh Cha nói với các tín hữu trong buổi tiếp kiến chung sáng ngày 5/4/2023: Những vết thương của chúng ta có thể trở thành nguồn hy vọng khi, thay vì khóc thương cho bản thân hay che dấu chúng, chúng ta lau nước mắt cho người khác; khi thay vì nuôi lòng oán giận vì những gì bị cướp đi khỏi chúng ta, chúng ta quan tâm đến những gì người khác thiếu; khi thay vì gặm nhấm trong chính mình, chúng ta cúi xuống trước những người đau khổ...
Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung vào sáng thứ Tư Tuần Thánh, ngày 5/4/2023, khi Giáo hội chuẩn bị bước vào Tam Nhật Thánh, cử hành cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô, Đức Thánh Cha chia sẻ với các tín hữu về đề tài “Chúa chịu đóng đinh, nguồn mạch hy vọng”.
Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu chiêm ngắm cây Thánh Giá và nói rằng Chúa Giêsu trần trụi trên Thập giá mời gọi chúng ta cởi bỏ những ảo tưởng sai lầm để nhìn nhận sự thật về chính mình, và tìm kiếm sự chữa lành và khả năng bắt đầu một khởi đầu mới.
Đức Thánh Cha giải thích rằng những đau khổ mà Chúa Giêsu gánh chịu vì chúng ta không chỉ đơn thuần về thể lý, mà còn bao gồm cả những kinh nghiệm của con người về sự phản bội, từ chối và thậm chí, trên thập giá, bị Chúa Cha bỏ rơi. Tuy nhiên, khi yêu thương và tha thứ cho những người làm tổn thương mình, Người biến sự ác thành điều thiện và biến đau thương thành tình yêu; biến những vết thương của Người thành nguồn hy vọng cho tất cả mọi người. Do đó, Đức Thánh Cha nói, chúng ta cũng có thể biến đổi những vết thương của mình bằng cách kết hợp chúng với những vết thương của Chúa Giêsu, khi quên mình và phó thác cuộc đời mình trong bàn tay nhân từ của Thiên Chúa Cha.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Hy vọng của bạn hôm nay ở đâu?
Chúa Nhật vừa rồi Phụng vụ cho chúng ta nghe bài Thương khó của Chúa. Bài Thương Khó đó kết thúc với câu: “Họ đã niêm phong tảng đá” (Mt 27,66). Mọi thứ dường như đã kết thúc. Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu, tảng đá đó đánh giấu điểm kết thúc của niềm hy vọng. Thầy bị đóng đinh, bị giết một cách dã man và nhục nhã nhất, bị treo trên thập giá bên ngoài thành phố: một sự thất bại công khai, một kết cục tồi tệ nhất có thể. Giờ đây, sự nản lòng đã đè nặng các môn đệ cũng hoàn toàn không xa lạ với chúng ta ngày nay. Những suy nghĩ u ám và cảm giác thất vọng cũng tràn ngập trong lòng chúng ta: tại sao lại có quá nhiều sự thờ ơ đối với Thiên Chúa?
Tại sao có quá nhiều sự ác trên thế giới? Tại sao bất bình đẳng tiếp tục gia tăng và mong ước hòa bình không đến? Tại sao chúng ta quá thích chiến tranh, thích làm điều xấu cho nhau? Và trong lòng mỗi người, bao nhiêu kỳ vọng tan biến, bao nhiêu thất vọng! Và một lần nữa, cảm giác rằng quá khứ có lẽ tốt hơn và rằng trên thế giới, có lẽ ngay cả trong Giáo hội, mọi thứ không diễn ra như trước đây… Tóm lại, ngay cả ngày nay, đôi khi niềm hy vọng dường như bị niêm phong dưới tảng đá của sự ngờ vực. Và điều này tôi mời anh chị em, mỗi người trong anh chị em, suy nghĩ xem: hy vọng của bạn ở đâu? Bạn có một niềm hy vọng sống động hay bạn đã niêm phong nó ở đó, hay bạn cất nó trong ngăn kéo, như một kỷ niệm? Nhưng hy vọng của bạn có thúc đẩy bạn bước đi hay nó là một ký ức lãng mạn như thể nó không tồn tại? Hy vọng của bạn hôm nay ở đâu?
Hãy chiêm ngắm cây Thánh giá để niềm hy vọng nảy sinh trong chúng ta
Một hình ảnh khắc sâu trong tâm trí các môn đệ: đó là thập giá. Ở đó mọi thứ đã kết thúc. Nhưng ngay sau đó họ sẽ khám phá ra một khởi đầu mới ngay trên thập giá. Anh chị em thân mến, niềm hy vọng của Thiên Chúa nảy mầm như thế, được sinh ra và tái sinh trong những hố đen của những kỳ vọng bị thất vọng của chúng ta; nhưng niềm hy vọng đó không bao giờ khiến chúng ta thất vọng. Chúng ta hãy nghĩ chính xác về thập giá: từ dụng cụ tra tấn khủng khiếp nhất, Thiên Chúa đã tạo nên dấu chỉ vĩ đại nhất của tình yêu. Cây gỗ chết chóc đó, đã trở thành cây sự sống, nhắc nhở chúng ta rằng sự khởi đầu của Thiên Chúa thường bắt đầu từ những kết thúc của chúng ta: do đó Người thích làm những điều kỳ diệu.
Vì thế, hôm nay chúng ta hãy nhìn lên cây Thánh giá để hy vọng có thể nảy mầm trong chúng ta: đó là nhân đức thường ngày, nhân đức thầm lặng và khiêm nhường, nhưng là nhân đức giúp chúng ta đứng vững, giúp chúng ta tiến bước. Không có hy vọng chúng ta không thể sống. Chúng ta hãy suy nghĩ: hy vọng của tôi ở đâu? Hôm nay, chúng ta hãy chiêm ngắm cây Thánh giá để niềm hy vọng nảy sinh trong chúng ta: để được chữa lành khỏi nỗi buồn khiến chúng ta bị bệnh.
Đức Thánh Cha chia sẻ rằng trước đây khi có dịp đi ra đường, ngài thích nhìn vào ánh mắt của mọi người. Có bao nhiêu người buồn phiền! Những con người buồn phiền, tự nói một mình, bước đi với điện thoại di động, nhưng không có bình an, không có hy vọng. Và đâu là niềm hy vọng của bạn hôm nay? Cần phải có một chút hy vọng để chữa lành nỗi buồn khiến chúng ta khổ sở, để được chữa lành khỏi sự cay đắng mà chúng ta đã làm ô nhiễm Giáo hội và thế giới. Anh chị em hãy nhìn vào Thánh giá. Và chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu trần trụi, Chúa Giêsu bị lột trần, Chúa Giêsu bị thương tích, Chúa Giêsu bị hành hạ. Có phải nó là kết thúc của tất cả mọi thứ? Hy vọng của chúng ta ở đó.
Chúa Giêsu bị lột trần: trình bày con người thật của mình
Và từ hình ảnh Chúa Giêsu trần trụi và mang thương tích trên Thánh Giá, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu tìm hiểu làm thế nào niềm hy vọng, dường như đã chết, được tái sinh. Ngài nói: Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu bị lột trần: thật vậy, “đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau” (c. 35). Thiên Chúa bị lột trần: Người là Đấng có tất cả lại để mình bị tước đoạt tất cả. Nhưng sự sỉ nhục đó là con đường cứu độ. Đây là cách Thiên Chúa chiến thắng vẻ bề ngoài của chúng ta.
Trên thực tế, chúng ta cảm thấy khó bày tỏ tâm hồn mình, khó nói ra sự thật, chúng ta luôn tìm cách che dấu sự thật mà chúng ta không thích; chúng ta khoác lên mình vẻ bề ngoài mà chúng ta tìm kiếm và quan tâm với những chiếc mặt nạ để ngụy trang và để chúng ta có vẻ tốt hơn con người thật của mình. Chúng ta nghĩ rằng điều quan trọng là phô trương, thể hiện, cũng như điều người khác nói tốt về chúng ta. Và chúng ta tô điểm cho mình bằng vẻ bề ngoài, bằng những thứ hào nhoáng; nhưng theo cách này chúng ta không tìm thấy bình an. Khi vẻ trang điểm mất đi và bạn nhìn vào gương và thấy gương mặt không xinh đẹp của bạn, nhưng nó là thật, là điều Chúa yêu thích, chứ không phải là khuôn mặt được trang điểm.
Loại bỏ những thứ vô dụng, thừa thãi trong tâm hồn
Bị tước bỏ mọi thứ, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng niềm hy vọng được tái sinh bằng cách trình bày thật về chính mình, bằng cách từ bỏ tính hai mặt, bằng cách không chung sống hòa bình với những điều giả dối của chúng ta. Đôi khi, chúng ta quen nói dối với chính mình đến nỗi chúng ta sống với sự giả dối như thể chúng là sự thật và cuối cùng chúng ta bị đầu độc bởi sự giả dối của mình.
Điều cần thiết là quay trở lại với tâm hồn, với những điều thiết yếu, với một cuộc sống đơn giản, loại bỏ nhiều thứ vô dụng, là những thứ thay thế của niềm hy vọng. Ngày nay, khi mọi thứ đều phức tạp và chúng ta có nguy cơ đánh mất điều cốt yếu, chúng ta cần sự đơn giản, để khám phá lại giá trị của sự điều độ, của sự từ bỏ, của việc dọn sạch những gì làm ô nhiễm tâm hồn và khiến chúng ta buồn phiền. Mỗi người chúng ta có thể nghĩ ra một thứ vô dụng mà mình có thể rũ bỏ để tìm lại chính mình...
Chúng ta cũng có quá nhiều thứ vô dụng bên trong trái tim - và cả bên ngoài nữa. Hãy nhìn vào tủ quần áo của bạn. Cái này hữu ích, cái này không cần… và dọn dẹp ở đó. Hãy nhìn vào tủ quần áo của tâm hồn: bạn có bao nhiêu thứ vô dụng, bao nhiêu ảo tưởng điên rồ. Hãy quay trở lại với sự đơn giản, với những điều chân thật, không cần trang điểm. Đây là một bài tập tốt!
Chúa Giêsu bị thương tích: mở ra một lối đi mới
Tiếp tục bài giáo lý, Đức Thánh Cha nói: Chúng ta hãy nhìn lên Thánh giá một lần nữa và chúng ta thấy Chúa Giêsu bị thương tích. Thánh giá cho thấy những chiếc đinh xuyên qua tay và chân của Người, cạnh sườn của Người bị đâm thủng. Nhưng những vết thương của linh hồn thêm vào những vết thương của thể xác: Người chịu đau khổ biết bao. Chúa Giêsu đơn độc: bị phản bội, bị giao nộp và chối bỏ bởi chính người thân của mình, bởi các bạn hữu, và bởi cả các môn đệ của Người; bị chính quyền tôn giáo và dân sự lên án; thậm chí Người còn cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi (x. c. 46).
Trên thập giá còn xuất hiện lý do cho cái kết, “Đây là Giêsu: Vua dân Do Thái” (c. 37). Đó là một sự nhạo báng: Chính Người đã tránh đi khi người ta tìm cách phong Người làm vua (x. Ga 6,15), bị kết án vì đã tự phong mình làm vua; mặc dù không phạm tội, nhưng Người bị đặt giữa hai tên tội phạm và kẻ hung bạo Baraba được ưu ái hơn (x. Mt 27,15-21). Tóm lại, Chúa Giêsu bị thương tích cả xác lẫn hồn. Điều này giúp gì cho niềm hy vọng của chúng ta?
Thưa anh chị em, chúng ta cũng bị thương tích: có ai không bị thương tích trong cuộc sống?
Nhiều lần, vì xấu hổ, chúng ta dấu kín những vết thương. Ai mà không mang những vết sẹo của những lựa chọn trong quá khứ, của những hiểu lầm, của những nỗi đau còn mãi trong lòng và khó vượt qua? Nhưng cả những sai lầm phải gánh chịu, những lời lẽ gay gắt, những bản án khắc nghiệt? Thiên Chúa không che giấu chúng ta những vết thương đã đâm thâu thân xác và linh hồn Người. Người tỏ chúng ra để cho chúng ta thấy rằng một lối đi mới có thể được mở ra vào Lễ Phục sinh: tạo nên những tia sáng từ vết thương của chính mình. Chúa Giêsu trên thập giá, Người không buộc tội, nhưng yêu thương. Người yêu thương và tha thứ cho những ai làm tổn thương Người (x. Lc 23,34). Người biến điều ác thành điều tốt, Người cũng biến nỗi đau thành tình yêu.
Tôi phải làm gì với vết thương của mình?
Và Đức Thánh Cha nhận định: Anh chị em thân mến, vấn đề không phải là bị cuộc sống làm tổn thương nhiều hay ít, nhưng là phải làm gì với những vết thương này. Những vết thương lớn hay nhỏ, đều sẽ luôn để lại dấu vết trên cơ thể tôi, trong tâm hồn tôi. Tôi phải làm gì với vết thương của mình? Bạn làm gì với vết thương của mình, những vết thương mà chỉ bạn biết?
Kết hợp chúng với những vết thương của Chúa Giêsu
Tôi có thể để cho chúng bị tiêm nhiễm sự oán giận và buồn bã hay tôi có thể kết hợp chúng với những vết thương của Chúa Giêsu, để ngay cả những vết thương của tôi cũng trở nên sáng ngời. Anh chị em hãy nghĩ đến bao nhiêu người trẻ, không thể chịu đựng được vết thương lòng của mình và tìm cách giải thoát bằng cách tự sát: ngày nay, trong các thành phố của chúng ta, rất nhiều người trẻ không tìm thấy lối thoát, những người không có hy vọng và họ thích đi xa hơn với ma túy, với sự lãng quên... Còn bạn, ma tuý của bạn là gì, để băng bó vết thương?
Những vết thương của chúng ta có thể trở thành nguồn hy vọng
Những vết thương của chúng ta có thể trở thành nguồn hy vọng khi, thay vì khóc thương cho bản thân hay che dấu chúng, chúng ta lau nước mắt cho người khác; khi, thay vì nuôi lòng oán giận vì những gì bị cướp đi khỏi chúng ta, chúng ta quan tâm đến những gì người khác thiếu; khi, thay vì gặm nhấm trong chính mình, chúng ta cúi xuống trước những người đau khổ; khi, thay vì khao khát tình yêu cho chúng ta, chúng ta lại làm dịu đi những người cần chúng ta. Bởi vì chỉ khi chúng ta ngừng nghĩ về bản thân, chúng ta mới tìm thấy chính mình. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục nghĩ về chính chúng ta, chúng ta sẽ không tìm lại được mình nữa. Và chính nhờ làm điều này mà - Kinh Thánh nói - vết thương của chúng ta nhanh chóng lành lại (x. Is 58,8), và niềm hy vọng lại nảy sinh.
Dùng kinh nghiệm bị thương tích để chữa lành, để giúp đỡ người khác
Anh chị em hãy suy nghĩ: Tôi có thể làm gì cho người khác? Tôi bị thương tích vì tội lỗi, vì lịch sử, mỗi người đều có vết thương của mình. Tôi phải làm gì: tôi có giữ vết thương của mình như thế này suốt đời không? Hay tôi nhìn vào vết thương của người khác và dùng kinh nghiệm bị thương của đời mình để chữa lành, để giúp đỡ người khác? Đây là thử thách của ngày hôm nay, cho tất cả anh chị em, cho mỗi người trong anh chị em, cho mỗi chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta tiến bước.
Hồng Thủy - Vatican News