18 Tháng Tư 20249:08 CH(Xem: 19)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Cố LM Don Dolindo có những cảm nghiệm rất hay. Khi còn nhỏ, ngài chịu nhiều sự bách hại và khổ đau. Bằng cách nào mà ngài đã cố gắng ngửng đầu cao lên khỏi bể nước và luôn vui vẻ? Chúa Thánh Thần đã khơi nguồn cảm hứng cho ngài với lời cầu nguyện đơn sơ như sau:
18 Tháng Tư 20248:35 CH(Xem: 16)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Lúc gần đây có nhiều người biết đến hiện tượng: "Padre Pio of Naples", đó là điều mô tả về cố linh mục Don Dolindo Ruotolo. Ngài qua đời vào năm 1970, chỉ hai năm sau khi Padre Pio qua đời vào năm 1968. Ngài đang làm việc một cách hữu hiệu từ Thiên Đàng. Ngài an ủi, dỗ dành, chữa lành cho rất nhiều người khỏi chứng bịnh lo âu,
18 Tháng Tư 20247:58 CH(Xem: 13)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Có một gương sáng lớn nhất, đó là chính Chúa Giêsu. Kẻ dữ độc ác đã đóng đinh Chúa Giêsu, Con Chí Thánh của Chúa Cha ở trên cây thánh giá. Lúc đó, Satan nghĩ rằng hắn đã chiến thắng. Nhưng sự thật thì trái lại. Đó là bởi vì Chúa đã biến đổi sự dữ ấy thành sự thiện.
18 Tháng Tư 20243:58 CH(Xem: 17)
Nguồn: Childrenofmedjugorje.com Sr. Emmanuel viết: Có một phụ nữ gõ cửa nhà tôi. Trông cô ấy thật là quá đau khổ, xuống sắc và thiểu não. Đôi mắt, đôi má và cái miệng của cô trông rất là buồn thảm và héo hắt. Cô bắt đầu kể lể về mọi nỗi thống khổ của mình.
17 Tháng Tư 20249:07 CH(Xem: 31)
https://luisapiccarreta.com/other-category/cristina-montella-sister-rita-of-the-holy-spirit-the-little-girl-of-padre-pio/ 1. Thời thơ ấu Nữ tu Cristina Montella được sinh ra tại vùng Cercola (Naples) vào ngày 3/4/1920. Khi cô bé được 2 tuổi, cô đang ở chơi nhà một người cô thì nhìn thấy một bức hình của Thánh Gerard Majella,
17 Tháng Tư 20244:44 CH(Xem: 31)
Đức Mẹ Guadalupe hiện ra ở Tepeyac, Mexico City, nước Mễ Tây Cơ từ ngày 9/12/1531 đến ngày 12/12/1531 và chữa lành rất nhiều người, dù rằng người ta đã chết nhưng vẫn được Mẹ cho sống lại.
17 Tháng Tư 20241:58 CH(Xem: 24)
Tồi vừa được xem một video clip tiếng Anh ngắn. Cậu bé chừng 6 tuổi mơ thấy mình lên Thiên Đàng. Sáng hôm sau, cậu kể câu chyện mẹ mình: -Mẹ ơi, con gặp một người chị của con ở Thiên Đàng. -Ủa, con chỉ có một người chị ở đây thôi mà.
13 Tháng Tư 20249:23 CH(Xem: 57)
Cảm nghiệm của một thanh niên làm nghề taxi: Con gặp khó khăn trong việc làm nên con quyết định làm nghề tài xế taxi.
13 Tháng Tư 20248:37 CH(Xem: 55)
“Thầy đây. Đừng sợ!” Trong tác phẩm “When All Hell Breaks Loose,” tạm dịch, “Khi Tất Cả Đổ Vỡ,” Steven J. Lawson viết, “Có thể bạn đang ở trong một cơn bão. Chúa có mục đích khi dẫn bạn vào đó. Ngài thừa sức bảo vệ bạn qua cơn bão; và Ngài có một kế hoạch, để cuối cùng, dẫn bạn ra khỏi đó. Hãy hướng mắt về Ngài!” Kính thưa Anh Chị em, “Hãy hướng mắt về Ngài!”
13 Tháng Tư 20248:26 CH(Xem: 55)
Nguồn: Spiritdaily.com 1. Có một câu chuyện kể rằng một vị chỉ huy vào cuối ngày, ông nhìn thấy mặt trời lặn trước khi ông ta có thể chiến thắng nơi chiến trường. Ông ta bèn quỳ xuống cầu nguyện với Đức Mẹ Maria để cầu xin Mẹ ngừng mặt trời lặn trong ngày hôm ấy lại để ông và quân đội của ông có thể chiến thắng. Thế là mặt trời bỗng dưng đứng lại...

GIÁO DÂN ĐA MINH GIẢNG THUYẾT

08 Tháng Ba 201710:15 CH(Xem: 3635)
 GIÁO DÂN ĐA MINH GIẢNG THUYẾT

Logo DaminhSuy tư của một giáo dân Đa Minh về việc thực thi sứ vụ Giảng Thuyết ngày nay

Nguyên tác : EL LAICO DOMINICO ... UN LAICO PREDICADOR
Una reflexión desde el Laicado sobre la predicación hoy
Tác giả  : HECTOR G. MANDUJANO
Dịch giả  : CHÂN LÝ, 2001

Lời giới thiệu

Kính gửi anh chị em trong đại gia đình Đa Minh,

Xin giới thiệu đến anh chị em tác phẩm : “Giáo Dân Đa Minh Giảng Thuyết”. Đây là suy tư của một giáo dân Đa Minh, anh Hector G. Mandujano, người Tây Ban Nha. Tập sách được giới thiệu trong Hội nghị Đại gia đình Đa Minh thế giới lần đầu tiên được tổ chức tại Manila Philippin từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 10 năm 2000.

Tư tưởng của anh rất phong phú thể hiện qua văn phong bình dị. Thế nên, chúng tôi dịch sát ý văn để đạt được ý của tác giả.
chathanh
Tập sách nhỏ này ra mắt nhân ngày họp mặt truyền thống Gia Đình Đa Minh Việt Nam 2001 như một cố gắng thể hiện tinh thần "Cùng nhau thi hành sứ vụ" của Hội nghị Gia Đình Đa Minh Thế Giới.

Hy vọng qua tập sách này, quý tu sĩ nam nữ hiểu được những thao thức, trăn trở, ước vọng đóng góp của người giáo dân trong sứ vụ giảng thuyết và tích cực hỗ trợ anh chị em giáo dân thực thi công tác này.

Và cũng qua đây, người giáo dân Đa Minh ý thức hơn trách nhiệm, sứ vụ cũng như tầm quan trọng của việc giảng thuyết trong môi trường sống hàng ngày.

Tu viện Mác-ti-nô, ngày 01 tháng 11 năm 2001
Ts. Đa Minh Đinh Viết Tiên, OP.
Đại diện Giám tỉnh

Chương 1 : LỜI TỰA

Công tác của Dòng Anh Em Thuyết Giáo trong những năm sắp tới là xây dựng Gia đình Đa Minh sao cho thực sự sinh động, thiết thực, vui tươi và đầy tình huynh đệ ; hơn là chỉ có trên danh xưng hay cơ cấu tổ chức. Do đó chúng ta cần chia sẻ đoàn sủng Dòng bằng việc tổ chức, học hỏi, cầu nguyện, chiêm niệm chân lý nơi Thiên Chúa và trong những biến cố của đời sống con người. Những thực tại đó là môi trường xã hội khác nhau mà chúng ta đang hiện diện, hay những môi trường mà chúng ta sẽ hướng tới hoặc cần sự hiện diện của chúng ta. Trong tinh thần đó, bằng việc giảng thuyết, chúng ta chia sẻ những điều đã chiêm niệm cho những môi trường ấy.

Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta làm cho nó trở thành sự sống hằng ngày nơi mỗi người chúng ta, chứ không phải chỉ bằng sách vở, văn bản. Mỗi người cần phải chấp nhận và xác tín rằng sự sống và sự tồn tại của Gia đình Đa Minh không thể chỉ thực hiện bằng nghị quyết, cũng không phải chỉ là trách nhiệm của những người có trách nhiệm điều hành, mà là do mỗi miền, mỗi nhà, mỗi khu phố nhỏ, bất cứ đâu có hai phần tử Đa Minh thì có cơ may trở thành một gia đình thực sự của Dòng.

Đó chính là điều làm cho nỗ lực của chúng ta được sống động hay tê liệt. Vì thế, trong lần gặp gỡ này của các phần tử Dòng Anh Em Thuyết Giáo, mọi người sẽ nhận ra rằng : điều liên kết chúng ta là sự nhận biết các ngành khác nhau và mỗi ngành có một dấu ấn riêng biệt. Sự hiện diện của người Đa Minh tại đây có thể tăng trưởng thực sự thành một cộng đoàn lớn, hoàn bị hơn với cái nhìn toàn diện về thực tại. Từ đấy nảy ra khả năng cùng nhau học hỏi và chia sẻ, chung sống và hiểu biết sứ vụ. Và như thế, ơn gọi Đa Minh của chúng ta có cơ may được tái bồi dưỡng và được thể hiện đầy đủ hơn.

Thách đố này đòi buộc chúng ta phải học hỏi, tổ chức, kiểm điểm và lập kế hoạch một cách thông minh và sâu sắc. Nhưng chúng ta phải nhận ra rằng, tổng hợp này chỉ có thể thực hiện được nếu mỗi ngành của Gia đình Đa Minh hoà nhập thành một đơn vị trong sứ vụ, đồng thời cũng biết bảo tồn những đặc trưng, những nguyên lý và căn tính riêng của mỗi ngành. Giáo dân đừng trở thành tu sĩ, làm như thế là bỏ mất đặc tính giáo dân mà Dòng đòi hỏi. Thật là ngược đời khi người giáo dân Đa Minh thay vì rảo khắp phố phường, len lõi vào các môi trường xã hội mình đang sống, họ lại tự khép kín mình lại để thi hành các công việc của người tu sĩ trong tu viện. Dòng cần một đạo quân giáo dân được huấn luyện riêng biệt, phù hợp với môi trường của họ.

Sự phong phú của chúng ta hệ tại tính đa dạng, cho nên việc mở rộng không gian địa lý và văn hoá đòi hỏi mỗi người thuộc mỗi ngành phải mang lại hoa trái riêng. Vì thế, cần đề cập đến "kế hoạch" phát huy việc giảng thuyết trong toàn thể Gia Đình chúng ta. Ước mong mỗi thành phần Gia đình Đa Minh gồm nam tu, nữ tu, đan sĩ, giáo dân sống tình huynh đệ sâu xa hơn, vì bất cứ ngành nào trên đây cũng có thể sống đầy đủ tính Đa Minh của mình. Sứ vụ chung cần đến sự đóng góp của mọi thành phần, để làm sao khi hoạt động chúng ta hiệp nhất, nhưng không đánh mất nét phong phú, chuyên biệt và đa dạng.

Từ lược đồ này chúng ta có thể trở lại với những nguồn mạch sống động, với đoàn sủng nguyên thủy để cung cấp vẻ tươi trẻ và sức sống mạnh mẽ trong hiện tại. Ơn gọi rao giảng phải là tôn chỉ, là trách nhiệm thiết yếu của Gia đình Đa Minh.

Ý niệm về tính Đa Minh là điều mà mọi người phải được huấn luyện ngay từ đầu. Chúng ta được sinh ra trong Gia đình Đa Minh, điều đó sẽ hướng tới mục tiêu chung của chúng ta. Cầu nguyện, học hỏi, chiêm niệm, giảng thuyết và mọi hoạt động khác phải phát sinh từ đấy.

Hiểu như thế, việc giảng thuyết sẽ trở thành thực tế trong mọi nơi mọi lúc. Mỗi người do kinh nghiệm có thể để lại chứng tá của mình trong môi trường sinh hoạt và xác định được mối tương quan giữa các đối tượng khác nhau. Với cùng một tinh thần chúng ta hãy bắt đầu nhận biết nhau để sau này có thể bổ khuyết cho nhau. Như một gia đình, chúng ta có thể mở rộng mãi phạm vi hoạt động.

Tôi xin cống hiến suy tư này cho toàn thể Gia đình Đa Minh, đặc biệt để kỷ niệm Đại Hội tiên khởi trong năm 2000 này, nơi chúng ta hoạt động cao độ. Tôi cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng mọi công việc, gia tăng mọi nỗ lực và cho phép chúng ta nhận ra những lãnh vực rộng lớn, để từ đó chúng ta có thể dự phóng sứ vụ của mình. Chúng ta hãy khám phá ra những dấu chỉ thuận lợi trong thời buổi này để Dòng nhận ra mình là một gia đình giảng thuyết, và do đó chúng ta làm cho nguyện ước tiên khởi của thánh phụ Đa Minh thành hiện thực : tu sĩ nam nữ, đan sĩ và giáo dân cùng nhau thi hành sứ vụ rao giảng chân lý.



Chương 2 : MỤC TIÊU CỦA TÀI LIỆU NÀY

Tài liệu này, dù chỉ thích hợp với khung cảnh Gia đình Đa Minh, nhưng cũng hướng về giáo dân nam nữ muốn sống ơn gọi của Dòng. Đây chỉ là một đóng góp đơn sơ và chân thành để khơi dậy suy tư và thảo luận về nội dung và những hình thức hiện diện của chúng ta trong thế giới ngày nay. Khi chủ trương khai triển đề tài này, chúng tôi nghĩ đến mỗi phần tử giáo dân của Gia đình Đa Minh và mỗi Huynh Đoàn với những đặc thù của nó để cổ võ sự kiểm thảo liên tục và nhờ đó thúc đẩy sự canh tân thích hợp và xác định sự hiện diện của chúng ta giữa cuộc sống hằng ngày.

Chúng ta cần phải bắt kịp tốc độ thay đổi của xã hội, cần phải tăng cường tìm kiếm xem làm thế nào để trở thành một giáo dân Đa Minh đúng nghĩa, đáp ứng được nhu cầu của giáo dân đang đòi hỏi. Việc kiểm thảo nội tại liên lỉ sẽ giúp chúng ta thích ứng, thúc đẩy hành động cho yêu cầu trên.

Danh dự của giáo dân Đa Minh trong nhiều năm được thu hẹp vào khuôn khổ Dòng Ba, mặc dù được nhiều giáo hoàng ca tụng - như Đức Piô XII -nhưng căn bản chỉ là giáo dân sống ưu tiên cho việc thánh hoá bản thân bằng đời sống đức tin sốt sắng, ăn ở nết na, làm gương cho thế giới bằng đời sống mật thiết với Thiên Chúa. Họ hiện diện rõ nét ở các nhà thờ, luôn sống đạo tốt lành.

Bối cảnh đã thay đổi thì nhu cầu cũng phải đổi thay theo. Những người nam nữ ngày nay đòi hỏi các câu trả lời có tính thuyết phục hơn, các thái độ dứt khoát hơn, sinh động hơn và ít giáo điều hơn. Họ đòi hỏi sự hiện diện và đồng hành. Cho nên khi tiếp cận với họ, chúng ta phải khéo léo để thiết lập nhiều cơ hội tốt cho việc đối thoại trong khi thời gian lại eo hẹp. Thái độ cởi mở và biết tôn trọng đã trở nên những điều kiện cần thiết để đối thoại.

Đường lối giảng thuyết của Đức Giê-su là đối thoại vô điều kiện và không dùng quyền bính. Đó là mẫu mực mời gọi tìm tòi và suy tư liên lỉ. Gương sáng của Người là tính dễ dãi, bình dân với ngôn ngữ đơn sơ nhưng ý nghĩa sâu thẳm (như các dụ ngôn chẳng hạn). Xác tín của Người là đến với mọi người chứ không chờ đợi họ đến với Người. Sự cởi mở của Người hệ tại khả năng nhanh chóng hoán cải thính giả và đưa ra các tôn chỉ lớn. Người luôn luôn tỏ lòng yêu thương hơn là lên án, cống hiến cho tội nhân cơ may trở lại và khởi sự canh tân đời sống mà không đòi hỏi điều nào ngoài ý chí thực hiện quyết định. Cũng vậy, một giáo dân Đa Minh ngày nay phải đi tìm kiếm mọi người với cái nhìn vào gương của Đức Giê-su để giúp cho người nghe lĩnh hội được sứ điệp mình rao giảng. Chúng ta phải khám phá ra rằng danh xưng của chúng ta nói lên ơn gọi, đặc sủng và sứ vụ của mình.

Do đó, trong mọi lãnh vực, người giáo dân Đa Minh hằng ngày phải đạt tới sự thánh thiện căn bản hợp với Lời Chúa mà mình rao giảng và lối sống gương mẫu ăn nhịp với nội dung Tin Mừng. Lý do để chúng ta hiện hữu là vì còn có hàng triệu triệu người chưa biết Thiên Chúa, chưa được tiếp cận với Người và tìm kiếm Người qua chân lý. Họ là mục tiêu rao giảng mà chúng ta hướng tới. Đặc biệt nếu họ lại là những phần tử đã bỏ Đạo, không đến nhà thờ nữa. Để đạt tới mục đích ấy, giáo dân Đa Minh phải tự trau dồi kiến thức, siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các Bí Tích. Nhưng luôn nhớ đó là những phương tiện, chứ không phải cứu cánh. Xin hãy luôn chiêm niệm chân lý của Chúa khi cầu nguyện và suy gẫm thực tại của thế giới với con mắt của lý trí và của Đức Ái để có thể phân phát cho tha nhân những kết quả của chiêm niệm.

Để có quan niệm đúng về giảng thuyết theo tư cách giáo dân, trong tập sách nhỏ này, qua phân tích tổng quát, chúng tôi trình bày những con đường nền tảng, đồng thời đề nghị những hình thức mới cho sứ vụ rao giảng của chúng ta. Nếu chúng ta làm được công việc biến mỗi giáo dân Đa Minh thành một chuyên viên rao giảng thì Gia đình Đa Minh đã cống hiến cho Giáo Hội đầy đủ hơn, và đáp ứng được ước mong mà Chúa đang trông đợi.

Đối với những Huynh Đoàn đang hoạt động, đây là một lời mời gọi cởi mở để với những hình thức rao giảng mới và khác nhau theo cách diễn tả của giáo dân. Qua lăng kính giáo dân, chúng ta sẽ thấy trong kế hoạch này những kiểu mẫu giúp chúng ta không còn lo sợ sự biến chất, nhưng lại là những biểu tượng, những ngôn ngữ ngày càng gần thính giả hơn, dễ hiểu dễ đọc phù hợp với con người thời đại ngày nay. Phải hiểu như thế nào khi cho rằng có những dấu chỉ và ngôn ngữ không hợp với xã hội ngày nay ? Thực ra, nhiều dấu chỉ và ngôn ngữ của chúng ta chứng tỏ chúng ta thuộc về dĩ vãng và hiểu biết rất ít xã hội đương thời.

Chúng tôi biết rằng, thay đổi không phải là chuyện dễ, nhưng tương lai đòi hỏi chúng ta phải cố gắng. Một khối giáo dân đã có hơn tám thế kỷ lịch sử đầy dẫy những gương sáng của các vị thánh, các chân phước và những uy tín trong lãnh vực khoa học, văn hoá. Ba giải thưởng Nobel đã được trao cho Giáo dân Đa Minh, nhiều chính khách nổi danh như Aldo Moro hay linh mục George Pire. Tất cả những điều đó nói lên khả năng giáo dân Đa Minh có thể đạt tới. Nhưng chỉ có thể đạt tới nếu chúng ta can đảm thay đổi và trở thành những sự hiện diện khác với cổ truyền để am hợp với xã hội, với thời đại và với tương quan sâu sắc hơn cùng Thiên Chúa.

Vả lại, trước con mắt của bất cứ giáo dân nào, những trang sách này còn có thể là cơ hội để nhìn thấy trong Giáo Hội, những lãnh vực còn có thể phát triển. Nhờ đời sống Đa Minh, họ có thể khám phá ra hứng thú để theo Đức Giê-su thành Nazareth .

Như chúng tôi đã nói trong lời dẫn nhập rằng, Gia đình Đa Minh đòi hỏi phải liên kết các ngành khác nhau, và để được như vậy phải có nhiều cơ hội tìm hiểu và quen biết nhau hơn. Nội dung tập sách này là những suy nghĩ về người giáo dân Đa Minh nhìn từ các ngành khác của Dòng. Thực hiện điều đó là giúp chúng ta đoàn kết hơn để có thể cộng tác với nhau. Nhờ các thực tại trần gian, quan điểm của chúng ta, xét như một gia đình, sẽ minh bạch, khách quan hơn và cho phép biến đổi các Huynh Đoàn cổ điển thành những cộng đoàn cởi mở, năng động đa dạng hơn, ngõ hầu chúng ta luôn hoạt động phù hợp với thời đại, đến độ biến thành các cực nam châm thu hút mọi người theo ơn gọi của chúng ta để đương đầu với các thách đố của thế gian. Ước chi mỗi hay nhiều Huynh Đoàn có một trung tâm khả dĩ tập hợp được nhiều tâm hồn ham thích cầu nguyện, học hỏi và chia sẻ Tin Mừng với tha nhân, những người cũng ham thích được nghe, được thông cảm. Ước chi qua việc đọc những văn kiện Toà Thánh, chúng ta khám phá ra rằng thời buổi này, Giáo Hội dành ưu tiên cho sứ vụ Tông đồ Giáo dân và còn ngụ ý rằng tương lai của Giáo Hội đòi hỏi giáo dân tham gia các hoạt động của mình, và rằng phải tổ chức lại cơ cấu giáo dân cho hoàn hảo hơn, bởi những người có đôi bạn biết nói và hiểu ngôn ngữ riêng của họ. Chúng ta hãy chia sẻ sự phong phú của đoàn sủng Đa Minh cho thế giới và hãy cung cấp cho thế giới môi trường thích hợp để tham gia nhiều hơn nữa đoàn sủng của Dòng xét như một gia đình.

Chương 3 : NHÌN VÀO THỰC TẠI

Muốn hiểu biết giáo dân nói chung, tức hiểu biết đối tượng của lời rao giảng, thì cần nhận biết cuộc sống thực tế của họ với lòng thông cảm và nhẫn nại, chứ không phải nặng lời phê bình, phân ti?h hay xét đoán họ, bởi vì thực trạng thế giới hiện nay rất phức tạp.

Chia sẻ những dấu chỉ hy vọng cho những ai đang thất vọng là một bổn phận đối với bất cứ thành viên nào trong Gia đình Đa Minh, vì rằng chúng ta không thể sống lẻ loi. Thiên Chúa đang nói với mọi người lời an ủi, yêu thương. Nên xác tín rằng khi từ chối đương đầu với khó khăn và từ chối tìm lời giải đáp thì chính chúng ta đã có vấn đề rồi. Như vậy, chúng ta luôn luôn được mời gọi góp phần vào việc giải đáp các khó khăn của thế giới.

Thánh Đa Minh luôn luôn vui vẻ và cảm thông nên đã luôn hoạt động và tìm cách giải đáp các khó khăn. Người đã mạnh dạn sai phái anh em ít ỏi đi khắp châu Âu để trình bày cho Giáo Hội một kiểu mẫu hiện diện mới với ý định thiết lập Dòng Anh Em Thuyết Giáo. Ngay từ khởi đầu, Thánh Phụ đã can đảm đương đầu với mọi gian nguy trong sự hỗ trợ của anh chị em tu sĩ. Người sẵn sàng thay đổi phương pháp truyền giáo, bỏ ngựa xe để đi bộ, cùng sống với những người đã xa lìa Giáo Hội. Người sáng suốt nhận ra rằng đó là con đường tốt nhất để cải hóa họ, làm cho họ trở lại chứ không phải đe doạ, khủng bố.

Thánh Đa Minh hiểu biết và sống theo Tin Mừng, hội nhập với nếp sống văn hoá thời đại. Người sẵn sàng đối đầu với các khó khăn, luôn luôn kiếm tìm chân lý trong suy tư thần học, nghiên cứu sách vở, siêng năng cầu nguyện xin ơn soi sáng, nghiền ngẫm thực tế chung quanh mình. Tóm lại, thánh Đa Minh là một gương mẫu trong thời đại của Người.

Phần chúng ta, chúng ta đang sống trong một thời đại khác, với nhiều biến chuyển nhanh chóng đến "choáng váng mặt mày". Những thay đổi trong mười năm gần đây rất nhiều và quan trọng hơn những thay đổi của mười năm trước đó, và những đổi thay này còn lớn lao hơn cả thiên niên kỷ trước. Nó biến đổi và cải tạo cuộc sống hằng ngày thêm đa dạng hơn. Vì thế, những suy tư hiện nay về cuộc sống không phải là chúng ta hiện ở đâu mà là chúng ta sẽ đi về đâu ?

Thông tin mau lẹ, kế hoạch kinh tế thay đổi nhanh chóng, cơ cấu gia đình bất ổn, tìm kiếm chân lý và công bình gặp nhiều khó khăn, quá trình sản xuất được tự động hoá, nhiều giáo phái xuất hiện, không có thời gian để suy nghĩ về Đức tin, khoa học đòi hỏi phải có một hệ thống luân lý phù hợp,... Tất cả những vấn đề này làm cho chúng ta phải đối mặt với những thách đố mới của nền văn minh hiện đại. Sự hiện diện bây giờ của chúng ta đòi hỏi phải tiến bộ hơn về phẩm chất lẫn số luợng. Bây giờ chúng ta phải đối phó chẳng những trong lãnh vực địa lý, mà cả trong lãnh vực kinh tế, khoa học, xã hội và văn hoá.

Xã hội trần tục ngang nhiên trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những dự tính của nó trong mọi lãnh vực và xác định lập trường mà không cần để ý đến sai lạc. Nhưng thực ra trong những năm gần đây, lý do sinh tồn không thể chỉ tìm trong kỹ thuật, trong triết lý, trong khoa học, thậm chí trong cách sống. Vì thế, xã hội vẫn còn nhiều bạo hành, đổ vỡ, nhiều người bị gạt ra ngoài lề... Nhiều đề án kinh tế không lưu tâm gì đến "thiện ích chung", quan niệm về nhân quyền thì mơ hồ từ đó phát sinh nhiều khủng hoảng trong gia đình và ngoài xã hội. Hậu quả là nhiều người cảm thấy cô đơn, thất vọng. Chúng ta không thể chỉ đơn thuần đổ lỗi cho khoa học kỹ thuật hay cho những cơ cấu xã hội, mà phải đi tìm những điều thiện hảo phù hợp với lý trí và luân lý nhờ sự soi sáng của Đức tin, một đức tin không loại trừ kiến thức nhân loại, một đức tin không lôi kéo chúng ta xa lánh thế gian, nhưng hội nhập chúng ta vào cuộc sống con người trong thế giới hôm nay.

Đối với Gia đình Đa Minh, hiện trạng xã hội phức tạp không phải là lý do để nản lòng thối chí. Ngược lại, đó là lý do để chúng ta hoạch định những hoạt động của mình. Được mời gọi vào thời điểm này để rao giảng ý định của Thiên Chúa với gương mẫu của thánh Đa Minh, chúng ta có những lược đồ giống như Người, và những nét riêng biệt của thời đại. Thánh Đa Minh, nhà giảng thuyết vĩ đại đã đưa ra những giải đáp hữu hiệu cho thời đại của Người, chứ không chỉ có thiện chí hay dự phóng lý thuyết suông.

Giảng thuyết là một khí cụ hữu hiệu nếu luôn luôn nương tựa trên một đời sống thánh thiện, siêng năng cầu nguyện, huấn luyện kỹ càng, lòng yêu mến và nhạy cảm với tha nhân. Thành quả sẽ tuỳ vào khả năng đánh giá thực tại và biết noi gương thánh Đa Minh.

Trong bổn phận người giáo dân của Giáo Hội, một Giáo hội phẩm trật, chúng ta có quyền được phép giãi bày suy nghĩ, hiểu biết của mình, không phải như kẻ bàng quan vô trách nhiệm hay như những người chỉ biết gây hoang mang, nhưng như là người mong muốn xây dựng trước những thay đổi của xã hội. Ngày nay, chúng ta phải đối diện với nhiều thách đố nhưng cũng có rất nhiều cơ may để rao giảng. Có những vấn đề đòi hỏi kiến thức của giáo dân, chứ không phải từ những công thức giáo lý cứng nhắc. Tuy nhiên, những kiến thức đó phải phù hợp với Đức tin và lý trí trước những vấn đề như : truyền sinh, quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, phân phối tài nguyên, của cải, lao động, công bình xã hội, đổ vỡ gia đình, v.v... Có những cá nhân nam cũng nhu nữ cần đến những giải đáp thoả đáng cho những lo âu thiêng liêng của họ. Họ cần sự hiện diện đặc biệt của Giáo Hội trong cuộc đời họ, cần Giáo Hội đồng hành với họ và mang cho họ những lý lẽ về đời sống Đức tin thuyết phục hơn. Họ muốn có sự hoà điệu rõ ràng hơn giữa lời nói và việc làm. Hơn nữa, còn có nhiều tâm hồn bê trễ, lầm lạc, cho nên cần có nhiều người tìm kiếm chân lý để giúp đỡ họ. Vậy để làm được việc đó, chúng ta cần nhiều cố gắng sống chân thực, trình bày quả quyết và mạch lạc.

Khi nói Giáo Hội và con người thời đại "đòi hỏi điều này" thì có nghĩa là đi từ phẩm đến lượng. Điều đó có nghĩa là đang khi người ta đòi hỏi chúng ta cần sống đức hạnh thì cũng cần sự hiện diện, thái độ gần gũi của chúng ta. Chúng ta cần đi vào nhiều lãnh vực của cuộc sống và hội nhập vào đó, hiện diện với dân chúng dưới nhiều hình thức, giải đáp những nhu cầu đa dạng của xã hội, hiểu biết thấu đáo thực tại của mỗi tầng lớp dân chúng với một thái độ cởi mở hơn, để khởi đi từ vị trí họ đang đứng, chứ không phải từ nơi mà ta muốn họ đi tới. Ngày nay, Tin Mừng hoá là kề vai sát cánh, đồng lao cộng khổ với mọi người, để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Thánh Đa Minh đã làm như vậy khi sẵn sàng từ bỏ để nên một trong họ và chỉ như thế lời Người giảng mới được lắng nghe. Người không nói với họ từ diễn đàn hay giảng đài mà là trong chính cuộc đời họ. Cũng vậy, chúng ta không thể rao giảng lý thuyết mà thôi.

Ngày nay, thành phần xã hội nào cũng đòi hỏi khả năng cảm thông, cho nên chúng ta phải cởi mở và gần gũi mọi người, để chia sẻ Tin Mừng trong nhiều nền văn hoá khác nhau và trong nhiều khát vọng xô bồ hiện đang hoà trộn ở các trung tâm đô thị.

Cuộc hội ngộ của các thành phần Gia đình Đa Minh là một cơ hội tốt, để các phần tử trong đó có thể bổ sung những khác biệt cho nhau. Con số to lớn các lãnh vực hoạt động cần sự hiện diện của chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải có khả năng hoạt động, chia sẻ đoàn sủng và sứ vụ của mình với hàng triệu các giáo dân khác sống trong những hoàn cảnh xã hội khác nhau. Do sự chung đụng hàng ngày, giáo dân có khả năng thấu hiểu ngôn ngữ của thế gian, đồng thời cũng hiểu biết linh đạo của Dòng. Giáo dân nhờ huấn luyện, chẳng những tạo cho họ có cái nhìn rõ ràng về sứ vụ của Dòng mà còn có điều kiện cần thiết để thi hành bổn phận của họ.

Với tư cách là Gia đình Đa Minh, chúng ta phải nhận xét đâu là sự đóng góp và trách nhiệm của mình, để trù liệu một lối huấn luyện vững chắc làm cho mọi thành phần trong đó có thể tiếp thu được. Cứ theo căn tính, chúng ta phải nhận ra những điểm chung của bậc giáo dân trong Giáo Hội, và việc huấn luyện họ không có nghĩa là các bản lược thảo sơ sài, chỉ có dáng dấp của một khoá khai tâm, mà cần có nội dung đầy đủ, vững chắc về thần học và linh đạo Dòng, là nắm bắt được những phương pháp trình bày rõ ràng và tiện dụng, hàm chứa những nền tảng cốt yếu, đồng thời hướng về nhiệm vụ giảng thuyết và đào tạo người giảng thuyết. Những nữ tu chiêm niệm, các tu sĩ hoạt động, các giáo dân Huynh Đoàn nếu được huấn luyện và chuẩn bị đầy đủ sẽ trở nên một lực lượng quan trọng để thi hành sứ mệnh của Dòng. Những tiện nghi hiện đại, những phương pháp truyền thông tiên tiến sẽ giúp đỡ đắc lực hơn cho lực lượng ấy khi thi hành sứ vụ.

Hoạt động với và cho giáo dân đòi hỏi ý thức nhận biết các giới hạn về thời gian mà họ có. Mặc dầu có một số giáo dân rảnh rỗi có thể tự nguyện đi truyền giáo ở những vùng sâu vùng xa trong một thời gian nào đó, nhưng phần đông, vì kế sinh nhai, họ có rất ít thời gian nhàn rỗi. Họ phải hiện diện và đảm đương những công việc hằng ngày. Tuy nhiên, đối với dự phóng của Dòng, chính giáo dân là những lực lượng xung kích cần thiết để Dòng xâm nhập vào thế giới vì họ len lõi vào nhiều lãnh vực khác nhau của cuộc sống để cùng với dòng thi hành sứ vụ.

Những đoàn viên huynh đoàn ngày nay không chỉ thực hiện các việc đạo đức, đào sâu Đức tin, lo liệu phần rỗi mình, mà họ còn phải trở thành phần tử của Gia đình Đa Minh rao giảng hằng ngày giữa thế giới. Tuy nhiên, cũng cần tổ chức chiêm niệm và cầu nguyện xen kẽ vào thời khoá biểu bận rộn. Phải trù liệu những hình thức giúp người giáo dân có thể tham dự mà không bê trễ hay xao lãng bổn phận gia đình hàng ngày. Phải hỗ trợ họ hoà nhập để trở nên một thành phần đích thực trong Gia đình Đa Minh, chứ không thể chỉ coi họ như những người thân hữu bạn bè của Dòng. Gia đình Đa Minh cần có những sáng tạo và đổi mới để thực thi điều đó. Đây là một thách thức nữa cho lịch sử Dòng.

Giáo dân Đa Minh đón nhận nhiều thành phần càng khác nhau chừng nào thì phạm vi hoạt động và khả năng ảnh hưởng của Dòng càng lớn chừng đó. Gia nhập Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh cũng là một ơn gọi. Vì thế, như tôi đã viết trên đây, chúng ta phải tích cực hoạt động để cổ võ sống ơn gọi giáo dân Đa Mimh trong mọi lãnh vực xã hội. Những đổi thay theo hướng cởi mở hơn, sự tương xứng giữa lời nói đi đôi  với việc làm là những điều kiện thuận lợi để cổ võ ơn gọi Đa Minh. Còn thật nhiều điều cần phải làm, bên cạnh trách nhiệm riêng mà giáo dân Đa Minh phải thi hành, thì công việc và sự hỗ trợ của gia đình Đa Minh cho ơn gọi giáo dân cũng rất là cần thiết.

Xã hội, mà lời rao giảng của người Đa Minh nhắm tới, là một xã hội có nhiều não trạng, quan điểm, nhiều kinh nghiệm và nhiều thực tại khác nhau. Vì thế khả năng diễn giải của chúng ta cũng phải đa dạng và phong phú bao gồm nhiều hiện trạng thực tế, nhiều loại ngôn ngữ nhưng luôn với tấm lòng cảm thông và yêu mến. Đây là lúc cần cởi mở và tái định hướng các lãnh vực sinh hoạt mà chúng ta hiện diện.

Việc cấp thiết hiện nay là rảo qua mọi lãnh vực của xã hội, thâm nhập vào mọi sinh hoạt đó, tay cầm tay với các người nam nữ tiên phong, hội nhập vào mọi cảnh huống. Chỉ có thế chúng ta mới thành công trong nhiệm vụ của mình, không những loan báo Tin Mừng nhập thế, mà còn thành sức sống của mỗi cá nhân anh chị em chúng ta trong xã hội.

Giảng thuyết như một sự tổng hợp sinh động của việc loan báo bằng đời sống, bằng tin tưởng, bằng hiểu biết, bằng tự thánh hoá bản thân. Đó là một công việc lớn đòi hỏi chẳng những Đức tin, lời cầu nguyện, kiến thức thần học, nhân sự mà còn cần sự cộng tác, giúp đỡ, cổ võ.

Ngày nay gia đình Đa Minh chúng ta cần thẩm định xem bao nhiêu người thực sự hiện diện trong xã hội và cùng nhau thi hành sứ vụ giảng thuyết. Sứ vụ rao giảng đòi hỏi phải có kế hoạch, phân tích, kiểm điểm những điều mình đã chiêm niệm để rồi lập ra kế hoạch những điều định làm. Phải khiêm tốn nhìn nhận rằng còn lâu chúng ta mới có thể hiện diện trong thế giới theo như lòng sở nguyện. Vậy thì chúng ta cậy dựa vào đâu nếu không phải anh chị em gíao dân với những tính cách và sắc thái riêng.

Giáo dân giảng thuyết với ngôn ngữ và lý luận đặc thù sẽ cung cấp cho Gia đình Đa Minh một sức mạnh rao giảng mới. Giáo dân giảng thuyết là một dạng khác làm cho Đoàn sủng Đa Minh hiện diện trong thế giới. Nhưng điều đó không thể thực hiện được, nếu từ chính trong gia đình không cổ võ gia tăng giá trị giáo dân một cách đặc biệt và không cung cấp cho họ điều kiện sinh hoạt, tổ chức thuận tiện. Vậy ngay trong nội bộ Gia Đình cần phải có một lối nhìn mới về người giáo dân. Huynh đoàn Giáo dân Đa Minh không những chỉ là một hiệp hội đạo đức tìm kiếm sự trọn lành cá nhân, mà còn là một tổ chức thi hành sứ vụ rao giảng chung của toàn Dòng. Chúng ta thiết lập ngành Giáo dân để họ thi hành sứ vụ của Dòng theo nếp sống đặc trưng của họ.

Vì vậy, cần cấp tốc lập ra những tổ chức nhằm phát triển sứ vụ của Dòng bằng ngôn ngữ của giáo dân, để những người nam nữ đã có gia đình, có công ăn việc làm có thể giảng thuyết. Nên suy nghĩ cần làm thế nào tổ chức cho các thành viên Gia đình Đa Minh có thể rao giảng và Tin Mừng hoá thành thị ? Làm thế nào để giáo dân Đa Minh có thể tự hào về tầm quan trọng của họ trong gia đình Đa Minh ? Làm thế nào để họ cảm thấy mình là Đa Minh như bất cứ phần tử nào trong Gia đình và trong công tác thi hành sứ vụ ? Làm thế nào để giáo dân hiểu được rằng họ phải ra đi và lưu ý đến những người đang làm việc trong các công sở, các hội đoàn, các tổ chức, các nền văn hóa chứ không phải chỉ là những người năng đến nhà thờ, tham dự Phụng Vụ (cố nhiên vẫn quan tâm đến họ) ?

Gia đình Đa Minh là một trung tâm chiếu toả sứ mệnh rao giảng mới, liên ngành, đa dạng về ngôn từ và dự phóng, là nơi đào tạo để mỗi ngành có thể duy trì đặc tính riêng của mình.

Người giáo dân Đa Minh phải ý thức rằng : "Điều quan trọng nhất không phải là những sinh hoạt trong Huynh Đoàn, mà là điều ta thực hiện cho tha nhân trên thế giới".


Chương 4 : DÒNG ANH EM THUYẾT GIÁO

Khi nói đến Dòng Thuyết Giáo, chúng ta thường bị cám dỗ dừng lại chiêm ngưỡng vẻ vinh quang, rực rỡ, huy hoàng của Dòng. Đó là điều tốt, nhưng tất cả chỉ là lịch sử đã qua. Nếu suy nghĩ một cách khách quan, điều này cũng hữu ích về mặt tích cực cũng như mặt tiêu cực. Mặt tích cực là nó giúp ta noi gương các vị đàn anh anh hùng, cảm thấy được khích lệ bước vào tương lai. Mặt tiêu cực giúp chúng ta thấy những thiếu sót để rồi sàng lọc, học hỏi sao cho những thiếu sót đó không xảy ra nữa. Lịch sử Dòng Thuyết Giáo, không trở nên già cỗi. Chúng ta đang làm nên lịch sử Dòng mỗi ngày. Những thành tựu của các thế kỷ đã qua thuộc về những người đã sống trong các thời kỳ ấy. Những gì hiện tại thuộc trách nhiệm của chúng ta. Những điều chúng ta đang làm hay bỏ sót không làm, chúng ta phải trả lời trước mặt Chúa. Vì thế phải nhìn lịch sử với cặp mắt khác, và nhìn hiện tại với nhãn quan khác.

Từ ngày thành lập, Dòng Đa Minh là "dòng của anh chị em giảng thuyết". Hiển nhiên, giảng thuyết là lý do để Dòng hiện hữu, giảng thuyết là lời giải đáp của "Đa Minh de Guzman" cho thời đại của Người, và điều liên hệ trực tiếp đến nguồn gốc của Dòng là sự thiếu hiểu biết về tôn giáo của các Ki-tô hữu. Họ đưa ra những giải thích sai lạc, lẫn lộn về đạo lý. Những giải thích ấy có nguồn gốc từ sự hiểu sai về nguyên lý nền tảng, về ý nghĩa đời sống của Giáo Hội. Thêm vào đó là sự bê trễ cầu nguyện, bỏ lãnh nhận các Bí Tích - những phương tiện hữu hiệu để tăng trưởng Đức tin - đã làm cho đời sống trong Giáo Hội suy thoái, nhiều tâm hồn xa lánh Giáo Hội. Những hình thức đạo đức rỗng tuếch, không chuyển tải ý nghĩa tâm linh, mà chỉ toàn có tính cách nghi thức bề ngoài ; rồi khi trà trộn vào các hình thức mê tín dị đoan khác của xã hội thì hoàn toàn biến chất, thành phù phép, không còn tính Tin Mừng. Tại Âu châu, vào thế kỷ XII, nhiều miền, nhiều nước, nhiều xã hội đã có một lối sống Đạo thoái hoá ; hơn nữa, không có được một nền huấn luyện nghiêm chỉnh, cung cấp những yếu tố cần thiết để tìm về với Đức tin chân chính.

Nhắc đến những khiếm khuyết về huấn luyện Đức tin nơi các tín hữu thời thánh Đa Minh khiến chúng ta phải thừa nhận một tình trạng tương tự ngày nay, nghĩa là chúng ta thực sự vắng bóng trong xã hội xét theo tư cách là Giáo Hội. Sự vắng bóng này cũng sinh ra hậu quả tai hại. Vậy, điều quan trọng là chúng ta hãy tự vấn : Ngày nay trong xã hội có sự hiện diện của Giáo Hội hay không ? Có những sự thiếu hiểu biết về tôn giáo không ? Xã hội được huấn luyện theo chiều hướng nào ? Nó có cần đến chúng ta không ? Nếu xã hội cần, chúng ta phải đáp ứng bằng cách nào ? Có đáp ứng được đầy đủ không ? Chúng ta có hiện diện gần gũi với mọi người của thời đại không ? Sự hiện diện của các anh chị em Giảng Thuyết có cần thiết nữa không ? Nhiều vấn đề khác cũng cần được đem ra bàn thảo và tự kiểm điểm lại, chẳng hạn về sự hiện diện đích thực của Giáo Hội trong lãnh vực truyền thông, kịch nghệ, thể thao, hoạt động trình diễn trước đám đông,... hay là vì thấy trong nhà thờ đông tín hữu, nhiều người đến lãnh các Bí Tích, mà chúng ta quên mất những cách hiện diện khác giữa lòng xã hội và thế giới.

Thời thánh Đa Minh, tông đồ giáo dân vắng bóng, phương tiện huấn luyện không có, làm cho một số anh em không thức thời nhận thấy sự du nhập của các quan niệm triết học, khoa học mới từ các nền văn minh khác vào châu Âu và gây ảnh hưởng mạnh mẽ vào niềm tin của các tín hữu Tây phương. Thiếu thốn nguyên lý nền tảng trong suy tư kiếm tìm chân lý làm cho người ta dễ dàng rơi vào các lạc thuyết. Họ dễ dàng chấp nhận mọi thứ niềm tin. Do đó phát sinh nhiều giáo phái kỳ quái trong niềm tin, không thực tế trong thực hành. Những giáo phái này tập họp thành tôn giáo và bề ngoài xem ra đáp ứng đầy đủ nhu cầu của quần chúng, nhưng xét về đạo lý thì chủ tâm phá hoại xã hội. Kết quả là lương tâm bị bẻ cong, cách ăn nết ở phóng túng, trật tự xã hội bị thâu hẹp, tự do không còn nữa.

Bước sang Thiên niên kỷ Thứ Ba, những hoàn cảnh trên vẫn đang tái diễn. Ngày nay sau nhiều thập niên chạy theo thuyết Duy Vật quá khích, người ta đã từ bỏ và quay về tìm kiếm một chân lý thiêng liêng. Những cống hiến dễ dãi không làm cho người ta thoả mãn vì thiếu tính nhất quán, thiếu tính bồi bổ. Sự pha trộn các nghi thức Á Đông với những nguyên lý Ki-tô giáo chưa được hoà hợp, còn nhiều phù phép và hương vị xa lạ... đã gây nghi hoặc trong tâm trí những người phương Tây, những người đang cần những đến lời giải thích thuyết phục hơn. Vậy làm thế nào để đến với những tâm hồn ấy?

Có những lý do gây cho nhiều người chán nản, khiến họ phải đi tìm lời giải đáp trong những lãnh vực tư tưởng khác. Đó là những bất nhất giữa lời nói và việc làm trong đời sống Đức tin, chúng làm nảy sinh nghi ngờ, mất tin tưởng vào cộng đoàn. Trong thời thánh Đa Minh những điều giống như thế đã xảy ra. Nó khơi dậy nơi Thánh nhân một loạt suy tư, tìm kiếm lời giải đáp, những giải đáp quan trọng cho tình hình rối ren như thế !

Nhiều thế kỷ đã trôi qua, thế giới hôm nay vẫn còn nhiều hiện tượng xã hội tương tự như trong thời Cha thánh. Con số tu sĩ giảm sút mà người ta lầm tưởng là trách nhiệm của Giáo Hội, thực ra là do ảnh hưởng tục hoá trong các tu viện. Nhiều người tự xưng có Đạo, nhưng thực ra lại chẳng hiểu biết niềm tin của mình. Nhiều người lại thực hành tôn giáo chỉ vì thói quen hoặc vì bổn phận bó buộc, tệ hơn nữa người ta giữ Đạo hoàn toàn mang tính chất xã hội hơn là đạo đức, do truyền thống hơn là do ơn Chúa Thánh Thần. Kết quả là ngày càng nhiều kiểu niềm tin trống rỗng, không xác tín. Đức tin thiếu xác tín làm suy yếu từ thế hệ nọ đến thế hệ kia, dần dần người ta xa lánh tôn giáo, hoặc tôn giáo bị mất đi tính nghiêm trang, ý nghĩa đích thực của nó.

Thế giới ngày nay đòi hỏi sự thật rõ ràng và sự hiện diện ngay thẳng. Những giải đáp có tính thuyết phục cao, những giải trình hữu lý trong một nền văn minh đầy dối trá. Nó cần sự hiện diện của một cộng đoàn Giáo Hội thân ái, có những hoạt động Tin - Cậy - Mến cao độ, và không thoả hiệp với bất cứ một khuynh hướng chính trị nào. Chỉ có như thế, Giáo Hội mới có thể tự do ăn nói, hiểu biết các thực tại khách quan và tìm kiếm được chân lý. Thái độ sẵn sàng chấp nhận các thay đổi chân chính làm cho con người dễ xích lại gần với ơn kêu gọi của mình. Không sợ sệt một thế lực nào, cũng không đe doạ một ai. Lắng nghe thế giới và sẵn sàng đối thoại với thế giới, đó không phải là điều thánh Đa Minh đã làm sao?

Nếu chúng ta thiếu hiểu biết Đức tin trong các sinh hoạt hằng ngày hoặc vì lười biếng, chúng ta không cống hiến thời gian, sức lực dạy dỗ về Nước Trời, không mời loài người từ bỏ thế gian trở về với Thiên Chúa, thì đó là một nguy cơ cho chúng ta. Chúng ta phải tự cật vấn về điều này. Nhưng nếu như việc cổ võ một lối sống Đức tin quá thiên về hành động đến độ quên đào sâu Đức tin vững chắc, không coi trọng việc cầu nguyện, không lãnh các Bí Tích và mù quáng đến độ cho là có thể mua được Ơn Cứu Độ, thì đó cũng là điều đáng cật vấn, đáng nghi ngờ. Lại nữa, ngày nay người ta có xu hướng tâm linh hoá tôn giáo, cá nhân hoá đời sống nội tâm, coi tôn giáo là một việc riêng tư, không cần biết đến trách nhiệm với Giáo Hội, với cộng đoàn, mà chỉ biết tìm Ơn Cứu Độ cho cá nhân. Lối sống này cũng là lối sống sai lạc, rất nguy hiểm. Cần phải suy nghĩ hơn về điều này, vì theo cách nhìn chính đáng của Giáo Hội, thì đó là những thiếu sót trong đời sống thiêng liêng. Lý do xảy ra hậu quả trên có lẽ tại chúng ta bận tâm nhiều đến việc ngăn cấm hơn là huấn luyện, đến điều hành hơn là đồng hành với họ. Đó là điều ngày nay giáo dân phải ý thức rõ để xây dựng một nếp sống Đức tin chính thống giữa những nền văn hoá khác nhau và vẫn luôn luôn gần với dự phóng của Nước Trời.

Với tư cách là những phần tử của Giáo Hội, dù là linh mục, tu sĩ, hay giáo dân, chúng ta phải suy nghĩ về những điều trên đây. Để rồi từ đó có thể đặt lại nền móng cho các ưu tiên và suy nghĩ thấu đáo về những thực tại mà thánh Đa Minh đã phải đối mặt tám trăm năm trước đây.

Riêng với các phần tử Gia đình Đa Minh, điều đó bao hàm hai trách nhiệm sau đây : thứ nhất, hoạch định kế hoạch học hỏi Lời Chúa để chia sẻ với Giáo Hội ; thứ hai, phải tìm hiểu cặn kẽ hơn về thế giới hôm nay, thế giới mà chúng ta phải rao giảng. Không phải chúng ta phân phát những cuốn sách Giáo lý, những mớ quy tắc sống, những lời ngăm đe thưởng phạt, mà là phân phát những lời động viên, khích lệ, những suy tư thần học chân chính khởi đi từ suy tư thực tại. Chúng ta hội nhập vào toàn thể cuộc đời, hoà nhập với mỗi vật, hoà điệu chứ không làm ly tán thực tại thiêng liêng và vật chất. Có như vậy, chúng ta mới cung cấp một ý nghĩa xây dựng cho cuộc sống Đức tin hằng ngày.

Lúc này là lúc tìm kiếm, gặp gỡ, không những trên bình diện cá nhân, riêng tư nhưng còn cả trên bình diện siêu việt của cộng đoàn. Chỉ trong ý nghĩa cộng đoàn và với ý nghĩa "công thiện" chúng ta mới có thể đương đầu với những thách đố của xã hội ngày nay, nghĩa là những đòi hỏi và những cật vấn của nó.

Từ đó, hoạt động giảng thuyết của chúng ta sẽ vượt ra khỏi ranh giới truyền thống để đến với các ranh giới mới với những ưu tiên riêng biệt và tới nhiều lãnh vực cuộc sống, cũng như nắm bắt được các chiều kích đa diện của cuộc sống nhân sinh. Cũng là một chân lý, nhưng bây giờ chiếu rọi sáng hơn, gần hơn vào các vấn đề mà ngày xưa bị coi như xa lạ. Nó đi đến với một nhân loại được kêu gọi để phát triển, để thăng tiến về mặt xã hội, văn hoá, chính trị và khoa học. Những yếu tố sinh tử đối với cá nhân cũng như tính tôn giáo của nó.

Giảng thuyết là một lựa chọn quan trọng, và hôm nay khác với các thời đại khác, ở chỗ nó có thể đến với những miền rộng lớn xét về địa lý, sẽ không chỉ là những làng mạc, thành thị, quốc gia, mà còn là những lãnh thổ vô hình, tỷ dụ như : văn hoá, kinh tế, khoa học,. với những ngôn ngữ và lợi ích đặc trưng của nó.

Những môi trường mới : nghệ thuật, thanh niên, lao động, bản xứ, thôn quê, công sở,... là những lãnh thổ rộng lớn hơn cả những miền đất Âu châu hồi thế kỷ XIII. Ngày nay, những phương tiện truyền thông, những kiến thức cho phép chúng ta trình bày một cách sâu xa, nghiêm túc, gần gũi và thực tiễn hơn. Dù rằng đòi hỏi của những môi trường lớn như vậy rất là cấp thiết, nhưng chúng ta cũng nên suy nghĩ kỹ về một nhân vật của năm 1210, một mình con người đó đã khắc phục thế giới mênh mông với một sứ vụ vô biên giới. Người đi rao giảng khắp châu Âu và thấm nhập vào mọi giới tuyến chỉ bằng lời nói. Ít ai dám quả quyết là thành công. Nhưng chỉ vài năm sau, Âu châu đã có nhiều trung tâm giảng thuyết và những tấm áo dòng trắng đã xuất hiện ở các khu đại học, các thành phố lớn. Họ rao giảng cùng một chân lý, dùng cùng một thứ ngôn ngữ mà ngày nay chúng ta cũng được kêu gọi để hợp lực.

Cha Bề trên tổng quyền Damian Byrne đã nói : "Ngày nay chúng ta phải tự coi mình là những nhà rao giảng hơn là thành viên của Dòng Đa Minh". Vậy trong thế giới hôm nay, các phần tử Đa Minh có còn được nhận biết và nhìn nhận là những nhà giảng thuyết nữa hay không ?

Chương 5 : GIÁO DÂN GIẢNG THUYẾT CÓ NGHĨA LÀ GÌ ?

Giáo dân giảng thuyết có ý nghĩa gì ? Tại sao giáo dân rao giảng lại là điều quan trọng ? Tôi làm gì trong Dòng Giảng Thuyết ? Nó có ý nghĩa nào chăng ? Ngày nay còn hợp thời chăng ? Nó có giá trị nào đối với tôi không ? Giảng thuyết có giá trị phải chăng chỉ đối với giáo sĩ và tu sĩ ?

Để trả lời rõ ràng những thắc mắc trên, trước tiên cần phải tìm ra ý nghĩa đích thực của danh từ "giảng thuyết". Theo từ điển, "giảng thuyết" có nghĩa là "làm cho điều gì đó được sáng tỏ, minh bạch". Đi xa hơn, chúng ta thấy rằng trong lãnh vực Đức tin có một chuỗi vô số những căn nguyên, những sắc thái cung cấp cho từ ấy một ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều.

Giảng thuyết tự nó gói ghém loại hoạt động mà chỉ đạt tới ý nghĩa đích thực do sự cam kết, chứ không do việc tình cờ loan truyền Tin Mừng mà người ta có thể thi hành trong Giáo Hội. Giảng thuyết là một công việc có sự hiện diện của Thiên Chúa, chứ không đơn thuần là một hoạt động hoàn toàn thế tục. Theo ý nghĩa này và trong mối liên hệ với Đức tin, giảng thuyết chỉ thực hiện được nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, khả năng đó ở trong tầm tay mọi người.

Giảng thuyết không phải là phát minh độc đáo của một tín hữu, cũng không phải là việc thương mại kiếm lợi trên thị trường, mà theo đúng nghĩa, giảng thuyết bén rễ và hiện diện trong việc chia sẻ, làm chứng và khơi dậy nơi tha nhân cơ hội tốt tiếp xúc với Thiên Chúa. Nhờ Đức tin, nhiều người được Thiên Chúa cho phép giảng thuyết trong giòng lịch sử nhân loại. Tương quan này đã trở thành lời đáp trả tự đáy lòng và bền vững của những ai luôn tìm kiếm nó dưới hình thức này hay hình thức khác. Giảng thuyết là khuyến khích sự gặp gỡ Thiên Chúa, là chỉ đường dẫn lối, là đưa ra những lý luận thuyết phục. Thiên Chúa là Đấng luôn luôn mặc khải sự thật của Người qua giòng thời gian, đồng thời Người cũng khơi gợi con người sự gặp gỡ với Người ngay từ khi tạo thiên lập địa. Mặt khác, chúng ta cũng có thể quả quyết rằng, trong thâm tâm, loài người vẫn khao khát tìm hiểu, lý giải về nguồn gốc của thụ tạo cũng như của chính mình. Khi trong Đức tin con người đã khám phá, đã gặp được Thiên Chúa, thì vấn nạn tại sao con người có mặt trên trái đất này đã được giải quyết. Khi chiêm ngưỡng vũ trụ, con người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, Đấng sẵn lòng chia sẻ với loài người mọi dự tính, sứ mạng và chân lý. Nếu như con người thực sự gặp gỡ Thiên Chúa, thì họ sẽ hoán cải, sẽ tự hướng những sinh hoạt theo thánh ý Người, và sẵn lòng chia sẻ với tha nhân những gì đã khám phá.

Khi khám phá ra Tin Mừng, mỗi người được mời gọi nhận ra nó trong những thực tại hằng ngày. Người ấy không thể coi nó như cái gì tách biệt khỏi cuộc đời mình. Chúng ta có thể đoan chắc rằng việc rao giảng sẽ đưa giảng viên từ việc nhận biết và loan báo Lời Chúa đến việc làm cho Lời ấy biến thành sức sống. Như thế, nghe và học hỏi chưa đủ, cần phải suy nghĩ, giải thích, để sau đó sống từng giây, từng phút. Vì Lời Chúa soi sáng mọi vấn đề liên quan đến con người, và vì Thiên Chúa hiện diện trong thâm tâm con người, cho nên những điều được chia sẻ có thể hoán cải chính cuộc đời kẻ nói lời chia sẻ. Xây dựng Nước Thiên Chúa đòi hỏi một khi đã hiểu Lời Chúa thì phải thực hành và từ đó đến cải tạo bản thân, cải tạo xã hội. Đó là chuỗi thành tựu của quá trình giảng thuyết.

Rao giảng luôn luôn là do bởi Thánh ý Thiên Chúa. Điều khẳng định đó là chắc chắn rồi và rao giảng là một sứ vụ rõ ràng trong bổn phận phục vụ tha nhân. Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ : "Hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng". Khi rao giảng, chúng ta tuân theo mệnh lệnh đó và như vậy, chúng ta chu toàn nhiệm vụ cá nhân. Nhưng khi tổ chức một dự án rao giảng chung gồm sự cộng tác của những cá nhân nhiệt tình, quảng đại sống thành cộng đoàn chiêm niệm Lời Chúa, đề ra những chiến lược rao giảng chung, thì các việc làm cá nhân được tổng hợp để ngày một lan tỏa vào trong các dân tộc khác nhau, các nền văn hoá khác nhau.

Rao giảng là một hành trình trong đó Đức Giê-su đồng hành với chúng ta. Người luôn luôn ở với chúng ta và để ý đến các thành tựu của mỗi chương trình, của mỗi cuộc tiếp cận của chúng ta với tha nhân. Vì thế hoạt động rao giảng không bao giờ là việc làm đơn độc. Đức Giê-su là người tiên phong, tiếp đó là Giáo Hội và sau nữa là các cộng đoàn nam nữ tu sĩ cùng đồng hành với chúng ta trong hành trình rao giảng. Vì sứ vụ rao giảng là mệnh lệnh của Đức Giê-su truyền cho mọi tín hữu, cho nên nó đã biến thành nhiệm vụ của Giáo Hội và là bổn phận của mỗi cộng đoàn. Nhà giảng thuyết là một tông đồ, nghĩa là một người được sai đi để rao giảng. Do đó, mọi nỗ lực dù bé nhỏ cũng phản ánh sinh hoạt rao giảng hằng ngày của chúng ta. Chứng tá, kinh nghiệm và lời cầu nguyện của mọi người đều góp phần vào sứ vụ rao giảng chung.

Giảng thuyết trong Cựu Ước và Tân Ước

Lịch sử giảng thuyết không phải mới bắt đầu đây. Ngay trong Cựu Ước giảng thuyết đã có một chỗ đứng quan trọng. Việc loan truyền sứ điệp của Thiên Chúa là hoạt động của các ngôn sứ, những người được Thiên Chúa tuyển chọn. Các vị luôn can đảm chuyển thông điều Thiên Chúa muốn Dân Người thực hiện. Vì thế, trong Sách Thánh chúng ta thấy một danh sách dài những người đã được Chúa gọi để loan truyền chân lý mặc khải, và họ đã lấy đó làm nhiệm vụ thiêng liêng phải chu toàn. Trong Cựu Ước người ta đã quý trọng và đánh giá cao hoạt động rao giảng Lời Thiên Chúa. Sách ngôn sứ Na-khum viết : "Kìa trên các núi đồi đã xuất hiện người đi loan báo Tin Mừng và công bố bình an" (2,1). Còn sách Nơ-khe-mi-a cũng viết : "Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi đọc rõ ràng và giải thích Sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà dân hiểu những gì các ông đọc" (8,8).

Giảng thuyết là làm chứng về Thiên Chúa, là xác tín các điều chúng ta nói.

Trước hết, chúng ta phải xác tín về những điều muốn thông truyền, muốn chia sẻ qua việc rao giảng. Những điều đó không phải là những mơ mộng, những ước muốn tốt lành, những ý tưởng hão huyền. Cần xác tín rằng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, và những điều Chúa truyền mang một ý nghĩa trọng đại đối với chúng ta cũng như đối với nhân loại : Lời Thiên Chúa là sự sống và sẽ trở thành hiện thực trong cuộc sống hằng ngày. Rao giảng Lời Chúa không chỉ là nhắc lại bài thần học hay bài giáo lý đã học, cũng không phải bài lý giải đâu là thế giới lý tưởng. Rao giảng là chia sẻ, là kiện cường những điều chúng ta đã thực sự thấu hiểu, đã thực sự sống. Những điều chúng ta rao giảng là kinh nghiệm của mội cá nhân về Lời Chúa.

Rao giảng chính là chia sẻ những kinh nghiệm về Thiên Chúa mà chúng ta đã đón nhận được qua chiêm niệm và học hỏi, và chúng ta đã biến chúng thành xương thịt, tức là thấm nhuần các mầu nhiệm Đức tin. Điều đó làm cho chúng ta thành những chứng nhân cho sự thật, những người có thể đoan chắc cho thế giới ngày nay rằng Đức Giê-su Ki-tô chính thật là Thiên Chúa. Chúng ta làm chứng không phải bằng những lời đường mật ngây ngô, mà bằng chính cuộc sống của mình. Rao giảng là một lời mời gọi mạnh mẽ đối với những ai dám mạo hiểm thay đổi lịch sử đời mình nói riêng và lịch sử thế giới nói chung. Thiên Chúa nắm giữ sức mạnh của chân lý. Sức mạnh này còn to lớn hơn sự tạo dựng. Nó là một đòi hỏi thúc bách hơn lời nói của chúng ta. Nó là chính sự quyết định liên hệ đến mọi sự, mọi người. Chân lý luôn luôn đòi hỏi chúng ta phải xét lại, bắt đầu lại, cho dù việc đó làm cho nhiều người bẽ bàng, xấu hổ. Thiên Chúa luôn ban dịp may, cơ hội tốt cho mọi người và lời hứa của Người luôn là một thực tại. Lời giảng thuyết của Gia đình Đa Minh phải bảo đảm điều ấy cho thính giả. Ngày nay, điều đặc biệt quan trọng là rao giảng công khai bằng sự hiện diện hữu ích trước mặt mọi người. Giảng thuyết không bao giờ là công việc nặc danh.

Với những ý niệm như thế, chúng ta mạnh dạn công bố kinh nghiệm về Thiên Chúa, làm cho Người hiện diện trong mỗi cuộc đời cá nhân dựa trên những mặc khải của Tin Mừng. Quả thật, nếu có niềm xác tín nơi Thiên Chúa, chúng ta không thể im hơi lặng tiếng, chúng ta phải chia sẻ với anh chị em đồng loại. Như vậy, khi trình bày cho tha nhân biết chúng ta miệt mài tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa là chúng ta sống đức tin chứ không phải là thi hành một công tác nào đó. Rao giảng là một hành trình dẫn đưa chúng ta đến với Thiên Chúa. Không bao giờ chúng ta biết được toàn vẹn Chân lý của Chúa, không bao giờ chúng ta tát cạn được chủ đề này vì chúng ta rao giảng về điều vĩnh cửu, về Thiên Chúa.

Trong Tân Ước, Đức Giê-su đã nhiều lần sai các môn đệ ra đi rao giảng. Sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết trước khi về Trời, Đức Giê-su đã nói : "Anh em sẽ là chứng nhân cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,7-8). Thánh Mác-cô viết : "Họ ra đi rao giảng khắp nơi, có Thiên Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo" (16,20).

Giảng thuyết từ kinh nghiệm cá nhân đến cộng đoàn

Mỗi cá nhân giảng thuyết đều có suy nghĩ riêng, tiếng nói riêng, kinh nghiệm sống riêng là điều rất quan trọng trong công tác rao giảng Tin Mừng. Cùng là một chân lý muôn thuở, nhưng đối với những người chưa có niềm tin, đòi hỏi người rao giảng phải cùng giới, cùng tuổi với họ. Vì khi có cùng một ngôn ngữ, cùng một kinh nghiệm sống, cùng một thời đại, cùng một lãnh thổ, và nhất là cùng một môi trường sống, một lãnh vực sinh hoạt, người ta dễ hiểu, dễ thông cảm và tin tưởng nhau hơn. Trong thông điệp "Loan báo Tin Mừng", Đức Phao-lô VI đã nói rất chí lý : thanh niên rao giảng cho thanh niên, gia đình rao giảng cho gia đình, v.v... Cũng là một sứ điệp, nhưng ngôn từ diễn đạt sứ điệp đó phải dễ hiểu, nó phải có tính cách thiết thực, sát với cuộc sống hằng ngày.

"...Và Phi-líp-phê hỏi : ?Ngài có hiểu điều ngài đọc không?? Ông quan đáp: ?Làm sao tôi hiểu được, nếu không người dẫn giải?." (Cv 8,30-31)

Chúng ta nên chọn điều sau đây như điều đầu tiên để suy niệm. Rao giảng phải là thành quả hết sức tự nhiên của sự sống Thiên Chúa trong con người. Giảng thuyết là phương tiện nhờ đó Lời Thiên Chúa khi đến với loài người thì diễn dịch thành lời mời gọi, người nghe suy nghĩ và rồi thay đổi cuộc đời. Lời Chúa không có chủ đích tăng thêm kiến thức hoặc thoả mãn óc tò mò của cá nhân muốn biết nhiều hơn, nhưng hướng dẫn ý chí, lý trí và toàn thể cuộc đời con người đến những phương trời tốt đẹp hơn, rộng rãi hơn. Tuy nhiên, phải hiểu phương trời mới này không phải là điều gì xa lạ, lẩn trốn thế gian mà là khung cảnh cuộc sống hằng ngày, thực tại trần gian. Lời Chúa không cho phép xa lánh và lẩn trốn thế giới, cho dù khi cầu nguyện, hoặc chiêm niệm người ta được hưởng sự ngọt ngào của Lời Người hay sự gặp gỡ với Thiên Chúa hấp dẫn mấy đi nữa. Trái lại, sự dấn thân vào công việc trần thế là một yêu sách, từ đó sự hiện diện của Thiên Chúa được tỏ rạng nhiều hơn trong thế gian, trong những giao tế xã hội, văn hoá, kinh tế,... và nó sẽ mang lại cho các vấn đề này một ý nghĩa tốt đẹp hơn trong sinh hoạt hằng ngày. Khi điều đó xảy đến, Thiên Chúa, với tất cả sự vĩ đại của Người, sẽ dẫn chúng ta bước vào một lãnh vực khác vượt trên mọi lãnh vực, và chia sẻ với mỗi người những điều riêng tư nơi họ.

Chúng ta rao giảng bằng lý lẽ thôi ư ?

Đời sống Đức tin là kết quả của một sự đổi thay, một tấm lòng hối cải trở lại. Quá trình này không bao giờ chấm dứt. Khi đã bộc lộ ra bên ngoài trong cuộc sống hằng ngày thì nó gây thắc mắc cho tha nhân và thân nhân, những người sống chung quanh. Sự đổi thay tự nó là một bằng chứng của Ơn Thánh và là kết quả của một quyết định có ý thức, có tự do, bình thường chứ không lạ thường hoặc ngoại lệ tách khỏi những điều thông thường. Đức tin không phải là một thay đổi có tính ma thuật, cũng không có tính bắt buộc cưỡng ép, càng không phải là một lối sống theo thời, một điều kiện vật lý để chiếm lãnh sự sống đời đời. Nội dung giảng thuyết sẽ rất nghèo nàn nếu quy về những điều trên đây. Rao giảng đòi hỏi sự xác tín thâm sâu, xét về một khía cạnh nào đó, nó bắt buộc phải có sự chọn lựa hữu lý và sẵn sàng vâng theo, nhất là phải đầy lòng yêu mến.

Như thế, cuộc đời con người sẽ dần dần được lý trí kiện cường. Lý trí là yếu tố căn bản để hiểu biết và cảm nhận, nó không hề tương phản với Đức tin, hơn nữa nhờ nó con người biết phân tách mọi sự cách minh bạch và như vậy các quyết định hằng ngày sẽ vững chắc hơn.

Tất cả những điều nói trên đây là nền tảng cho mọi hành động của chúng ta. Trong những hành động này, nội dung của lý trí sẽ biến thành các phương tiện để trao đổi, và khi đã được các kiến thức ngoại biên bổ túc thì chúng sẽ mở một con đường mới để chúng ta chia sẻ với tha nhân những lý giải cho các câu hỏi "tại sao". Chúng sẽ giúp chúng ta dễ dàng hoạch định một lối sống hợp lý. Những giáo dân nếu được huấn luyện thành thạo sẽ là những thành viên quan trọng để cổ võ sự hiểu biết mọi sự việc, mọi hoàn cảnh và môi trường. Đời sống Đức tin của họ sẽ được xác tín hơn nhờ các kinh nghiệm trong cuộc sống. Một Đức tin bao trùm mọi chiều kích, mọi lãnh vực, mọi môi trường của người đó. Thiên Chúa sẽ chung sống siêu việt với những tín hữu như vậy. Thánh Phê-rô đã khuyên nhủ : "Anh em hãy sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vần về niềm tin của anh em".

Chương 6 : TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DÂN GIẢNG THUYẾT

Giáo dân là thành phần đông đảo nhất trong Giáo Hội. Họ vừa là đối tượng của việc rao giảng, vừa là yếu tố lập thành sức sống của Giáo Hội. Trước khi lãnh nhận tác vụ thánh, toàn thể thừa tác viên, tu sĩ đều đã là những giáo dân trước. Trên con đường lữ thứ về quê trời, thành phần giáo dân này của Giáo Hội phải sống đan xen giữa thực tại trần thế và ơn gọi đức tin. Họ sở hữu một kho tàng rất phong phú, nhất là về mặt kiến tạo Nước Trời. Bởi lẽ họ là thành phần quan trọng, nên trong mỗi giai đoạn lịch sử của Giáo Hội, họ phải tự tổ chức để thi hành tốt hơn sứ vụ của mình trong tương quan với thực tại trần thế mà họ phải đương đầu.

Đàng khác, Giáo Hội xét như một cơ chế, cần nghiên cứu xem nên thiết lập những công tác nào và sử dụng những người nam nữ ở trình độ nào để đáp ứng tốt hơn cho sứ vụ và cho việc thăng tiến xã hội, ngõ hầu chu toàn chức năng của mình. Dân Chúa luôn luôn có những thắc mắc cần được giải đáp để học hỏi hơn là có những thành công để tán thưởng.

Tuy là dân được tuyển chọn, nhưng không phải lúc nào cũng có sẵn những câu trả lời. Họ phải nỗ lực để ngày càng hoàn thiện hơn, hiểu biết sứ điệp của Thiên Chúa hơn và thay đổi những gì cần thay đổi để có khả năng chuyển thông sứ điệp ấy cho minh bạch, trung thành và trọn hảo hơn. Họ là dân không sợ sệt vượt qua biển thời gian và trong quá trình ấy họ liên tục khám phá và tái khám phá những chiều kích mới của Lời Chúa. Đó là những kinh nghiệm quý báu cho phép họ mạnh dạn biến hoá và thay đổi. Họ là dân đồng hành với mọi quốc gia nên phải có thái độ cởi mở, cảm thông và kính trọng mọi người.

Trước đây, chia sẻ và giải thích Lời Chúa là trách nhiệm riêng của một bộ phận trong Giáo Hội. Giáo dân chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là giữ Đạo. Cho đến trước Công đồng Va-ti-ca-nô II, giáo dân vẫn không được rao giảng. Mãi đến thập niên 1960, giáo dân mới được phép chia sẻ và rao giảng Lời Chúa. Từ đó, một cơ hội to lớn đã được mở ra. Cộng đoàn Dân Chúa được huấn luyện Đức tin qua các lớp giáo lý, các kỳ tĩnh tâm ngắn hay dài hạn. Những lớp này là trung tâm quan trọng để khai tâm đời sống Đức tin, và ngày nay chúng lại còn được phát triển thành những khoá học hỏi thần học nghiêm chỉnh.

Một ích lợi khác nữa, khi người giáo dân được rao giảng, sức sống thiêng liêng của Giáo Hội phong phú hơn nhờ vào việc trao đổi kinh nghiệm, suy tư, ý thức sự hiện diện của giáo dân trong đời sống xã hội. Từ đó ngôn ngữ thần học và dấu chỉ Đức tin trong thế giới trở thành dễ hiểu hơn.

Vì giáo dân không được rao giảng kéo dài hàng trăm năm nên hoạt động tông đồ của nhiều triệu người nam nữ chỉ là những hoạt động mang tính cá nhân, riêng tư, thầm kín. Vì vậy, thế gian cho rằng Đức tin của chúng ta là mù quáng và vốn liếng giáo lý trong đạo được chúng ta "chấp nhận" hơn là được "hiểu biết". Hậu quả là trước những vấn nạn của thế giới, chúng ta chỉ có những câu trả lời giáo điều, mù mờ, ít khả năng thuyết phục, làm cho người đời có cảm tưởng chưa tìm được câu trả lời thích đáng.

Tất cả những điều tệ hại trên, cộng với sự thiếu thốn các lãnh vực mà giáo dân được phép tham gia, có thể phát sinh thái độ bàng quan. Nhiều gia đình tham dự thánh lễ Chúa nhật mà chẳng hề ý thức mình là giáo dân, tệ hơn nữa chẳng hề ý thức mình có một sứ vụ, một chức năng quan trọng là thành viên của Giáo Hội trong thế giới.

Vậy thì tại sao chúng ta không giảng ?

Sau nhiều thập kỷ thực hiện quyết định thay đổi của Công đồng Va-ti-ca-nô II, tại sao trong Giáo Hội, giáo dân vẫn chưa thấy được việc chia sẻ Đức tin là nhu cầu tự nhiên ? Có nhiều nguyên do để lý giải. Trong tập sách này chúng tôi chỉ đơn cử một vài điểm nhưng cũng đủ để giúp chúng ta suy tư về câu hỏi "tại sao ?" !

Thứ nhất, người giáo dân chưa ý thức nhu cầu phải làm cho thế giới nhận biết Tin Mừng.

Thứ hai, người giáo dân chưa thấy được rằng muốn sống sâu xa Đức tin của mình, họ phải biết chia sẻ cho người khác.

Đứng trước tình hình khẩn thiết hiện thời, việc soạn đề tài, xác định lại đường lối tư duy, khơi dậy lại vai trò người giáo dân trong Giáo Hội để họ chủ động sống Đức tin, chủ động chia sẻ Tin Mừng là những điều hữu ích nhất.

Giảng thuyết sinh hoa trái phải khởi phát từ một nền giáo dục tốt, cho nên người ta phải được bắt đầu giáo dục ngay từ trong gia đình. Các bậc cha mẹ là những thầy dạy Đức tin đầu tiên, những nhà sư phạm của con cái. Nhưng không ai có thể giáo dục nếu không được giáo dục trước. Vì thế, cần có một nền giáo dục có hệ thống và quy chiếu vào sự đa dạng của xã hội.

Nhưng khi nói về giáo dục để giảng thuyết là phải nói về giáo dục có định hướng. Trong Giáo Hội chúng ta, có nhiều hoạt động đa dạng, và cũng có nhiều giáo dân tham dự hết khoá học này đến khoá học khác, nhưng nếu không định hướng cho họ về mục tiêu chia sẻ, rao giảng Tin Mừng, thì họ khó có thể trở thành những nhà rao giảng chuyên nghiệp.

Một vấn đề nữa là vấn đề nhận thức đúng nghĩa của việc rao giảng. Ý nghĩa này không liên quan gì đến tài năng hùng biện thuộc lãnh vực rao giảng. Nhiều người nghĩ rằng tài hùng biện thuộc lãnh vực rao giảng. Nó cảm hoá thính giả trong các hội trường bằng từ ngữ điêu luyện, văn chương. Quan niệm sai lầm như thế không những loại trừ những người không có khả năng ấy, mà còn đi xa mục tiêu rao giảng. Giảng Lời Chúa chỉ cần tiếng nói rõ ràng, bình dị, đơn sơ và dễ hiểu là đủ.

Một số người khác lại chủ trương rằng chia sẻ Tin Mừng bằng giảng thuyết đòi hỏi phải học qua nhiều khoá huấn luyện đặc biệt để đạt đến trình độ hiểu biết cao. Như thế, họ quên rằng Chúa Thánh Thần sẽ cho chúng ta biết phải nói gì và nói thế nào khi chúng ta tình nguyện hoạt động theo ý Người. Việc rao giảng cũng không đòi hỏi những nhân đức anh hùng, những kiến thức uyên bác và nghề trình diễn điêu luyện. Điều cần thiết là một nền giáo dục đúng đắn và một thái độ sẵn sàng chia sẻ những điều đã sống, đã cảm nghiệm, đã suy tư.

Rao giảng là lãnh trách nhiệm về lời mình đã rao giảng. Trách nhiệm này nặng nề, nên nhiều người chọn im lặng là hơn. Nói về Tin Mừng mà không sống Tin Mừng sẽ gây nên thắc mắc nơi thính giả và chính trong lòng mình. Vì thế, cần hoán cải luôn luôn, cần sự trợ giúp của cộng đoàn, của lời cầu nguyện. Không xác tín những gì mình nói là điều sống còn, thì làm sao có thể chia sẻ với người khác một cách minh bạch được ? Điều mình nói không bén rễ sâu trong lòng, thì làm sao thuyết phục kẻ khác ? Vậy việc huấn luyện không những hệ tại đọc và học hỏi mà còn cần suy gẫm, gặp gỡ Thiên Chúa trong mọi khía cạnh đời sống : trong đời sống bác ái và trong những giờ cầu nguyện liên lỉ. Thánh Ca-ta-ri-na thành Si-ê-na đã nói : "Chúng ta nhận biết Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện". Và thánh Đa Minh, khi được hỏi đã trả lời : "Tôi học được mọi sự trong cuốn sách Đức Ái". Đó là hai mẫu gương quan trọng về một nền huấn luyện sống động, giáo dân có thể học hỏi để rao giảng và tự chuẩn bị hơn nữa.

Chính đời sống nội tâm thúc đẩy chúng ta nói không chút sợ sệt cho thế giới về Thiên Chúa. Nếu như thế giới không muốn nghe hoặc có thành kiến xấu về Giáo Hội, thì chúng ta phải có can đảm và khôn ngoan. Giáo Hội sơ khai bị bách hại đã xử trí thế nào trước những cấm cách và chê bai của đa phần dân chúng ? Thánh Phao-lô đã sống như thế nào tại Rô-ma, nơi đầy dẫy những ngẫu tượng và mê tín ? Giáo Hội sẽ ra thế nào nếu trong những thời buổi khó khăn, chúng ta lại phản bội lại các xác tín, hoặc đồng hoá chúng theo não trạng đương thời để tránh bị chê bai ? Ngày nay có thể chúng ta rất khó hiện diện trước "nụ cười hóm hỉnh" của những người hoài nghi, những người cho rằng Đức tin chỉ dành cho kẻ dốt nát. Vì thế sự xác tín cần phải đi đôi với lòng dũng cảm để rao giảng. Tin Mừng của Đức Giê-su thật khó gieo trên phần đất của kỹ thuật, của thị trường, và tất nhiên Tin Mừng Chúa cũng không thỏa hiệp, không thương lượng, hay hoà hợp với quyền bính, với áp bức, lừa đảo. Trong Nước Thiên Chúa không có thuyết tương đối, chân lý chỉ có một. Nhưng Đức Giê-su đã nói : "Hãy can đảm lên, vì có Thầy đây !". Sự sợ hãi làm tê liệt mọi hoạt động.

Mở tung không còn sợ sệt là điều căn bản để khởi sự đối thoại với tha nhân. Phải biết lắng nghe và không chỉ trích, biết đón nhận phản ứng của những điều ta nói. Cởi mở để thấy sự phong phú trong những dị biệt, cởi mở để chia sẻ chứ không để áp đặt, để nghe, để trân trọng, để nắm bắt tấm lòng thành thực của tha nhân. Lời của Thiên Chúa cần phải được chia sẻ, được giải thích, được đặt nền tảng, chứ không bao giờ bị bó buộc hay áp đặt. Việc giảng thuyết phải được trình bày mạch lạc trong Đức Ái.

Chúng ta hãy bắt đầu quyết định giảng dạy khởi đi từ hôm nay. Cơ hội xảy đến bất cứ lúc nào trong ngày. Tha nhân luôn luôn có nhu cầu, chẳng kể giờ giấc. Bởi vì có những giáo dân trong Giáo Hội đã chuẩn bị nhiều năm, tham dự nhiều cuộc tĩnh tâm, nhiều buổi thuyết trình, đọc nhiều sách vở để chờ ngày đi rao giảng Tin Mừng, nhưng chờ được cơ hội thì tuổi đã già. Họ không bao giờ được thi hành phận vụ. Họ đã trở thành kẻ sưu tầm kiến thức suông.

Những thách đố nhiều khi lại là cơ may. Điều khẩn thiết để thi hành sứ vụ tại đây và ngay bây giờ là không phải ngồi yên một chỗ rồi đưa ra những hình ảnh, nguy cơ dẫn đến sai lầm để cảnh giác, mà là đến ngay với từng trăm, từng ngàn thanh niên, trẻ em, người lớn đang thất vọng, đang chịu đựng sống trong những xã hội, những tổ chức điêu tàn, đầy bất công. Họ là những anh em của chúng ta, những anh em có quyền sống xứng đáng, vui tươi bằng đời sống sung túc mà Thiên Chúa muốn cho con cái Người bây giờ, chứ không phải do những hạt cơm rơi vãi mà phần đông phải sống trong nhiều quốc gia. Vì thế, phận sự đòi buộc chúng ta phải quyết định khẩn cấp, không còn nhiều thời giờ để suy nghĩ. Chúng ta hãy xây dựng một xã hội Tin Mừng ngay hôm nay, chúng ta hãy xây dựng một xã hội Lời Chúa, Lờ? có khả năng biến cải cả trái tim chai đá và xa lạ nhất. Sự thay đổi mà thế giới cần đến chỉ có thể trở thành hiện thực khi được khơi dậy từ lương tâm chúng ta. Chúng ta hãy trình bày cho thế giới một khuôn mặt Đức Giê-su trọn vẹn, một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, một Giáo Hội tay cầm tay hoạt động, ngay bây giờ chứ không phải trong cuộc sống mai sau.

Điều tiên quyết là xác tín rằng Thiên Chúa ở với chúng ta. Để được như thế, phải học lại niềm tín thác và có kinh nghiệm sống về Thiên Chúa trong cuộc đời. Điều đó đòi hỏi phải hoán cải liên lỉ, phải tranh đấu trường kỳ để ngày càng sống Tin Mừng cách hoàn hảo hơn. Tình yêu và lòng cảm thông phải là những động cơ của Đức Mến và toàn thể hoạt động chúng ta. Chúng ta giảng thuyết vì yêu mến những anh em chúng ta. Chúng ta chia sẻ cho họ những điều chúng ta tin, chúng ta mời gọi họ liên kết với chúng ta trong việc thành thực tìm kiếm chân lý. Rao giảng Thiên Chúa không phải chỉ là nhắc lại những điều chúng ta đã đọc về Người, những điều nghe kẻ khác nói về Người theo những suy nghĩ cá nhân họ. Chúng ta hãy nghe chân lý từ chính Thiên Chúa như thánh nữ Ca-ta-ri-na Si-ê-na đã làm khi cầu nguyện, chúng ta hãy gặp gỡ Thiên Chúa trong tình bác ái với những người cùng khổ. Ở đó, có Đức Giê-su và cách sống ấy làm cho chúng ta hết im lặng, làm cho đời chúng ta cũng biến đổi dù rằng chúng ta vẫn là những người nam, người nữ, kỹ sư, bác sĩ, chính trị gia,... của Dân Thiên Chúa.

Có kinh nghiệm sống động, có lòng thương cảm với tha nhân chưa hẳn có thể chia sẻ được với tha nhân. Điều này còn cần được huấn luyện, một sự huấn luyện thường xuyên. Sự huấn luyện này không phải là một đạo lý ướt át tha hoá mà là một lời giải phóng, không phải là tiếng ru ngủ mị dân mà là một sứ điệp lay tỉnh. Nó được gửi tới cho chúng ta, giống như trong ngày lễ Ngũ Tuần, và cho mọi người không phân biệt biên cương, không giới hạn cho tất cả mọi người, thiện cũng như ác, được định hướng cũng như không định hướng, có tín ngưỡng cũng như vô tín ngưỡng, vì tất cả đều là con cái cùng một Cha.

Nếu muốn trung thành với chân lý, thì việc chuyển thông Lời Chúa là một trách nhiệm lớn. Vì Lời Chúa là chân lý. Lời Tin Mừng thế nào thì phải rao giảng như thế ấy : không khách sáo, gọt dũa hoặc làm dịu bớt những đòi hỏi của Tin Mừng. Lời Đức Giê-su nói rất minh bạch, cương quyết và không mang lối mị dân. Đó là lời tuyên cáo, là lời mời gọi, là bản kiểm điểm cho đời sống mọi người. Chúng ta không có quyền sắp xếp lại nội dung của Tin Mừng, cũng không thể thỏa hiệp với những kế hoạch kinh tế, chính trị, xã hội của bất cứ thế lực trần thế nào. Chính những lãnh vực đó phải đáp ứng vô điều kiện những đòi hỏi của Tin Mừng. Chân lý luôn là một, không biến thể, không giảm thiểu. Chúng ta rao giảng Lời của Thiên Chúa, dù rằng Lời ấy đã ăn vào máu huyết của chúng ta nhưng mọi ý kiến cá nhân vẫn phải được qui chiếu về Tin Mừng không đuợc xuyên tạc, bẻ cong.

Việc giảng thuyết của chúng ta khởi đi từ cuộc sống, từ sinh hoạt hằng ngày , nhưng phải ý thức rằng chúng ta chỉ giữ vai trò cổ động, chính Thiên Chúa tiếp xúc với người nghe. Một sự gặp gỡ trực tiếp, không qua trung gian. Chúng ta không phải là kẻ đứng giữa mà chỉ là người phục vụ Lời Chúa, những người được sai đi và là những chứng nhân.

Tất cả mọi người đều được kêu gọi thi hành sứ vụ rao giảng. Hãy nhớ lại đoạn Tin Mừng thuật chuyện các Tông Đồ ngăn cản người ngoài Nhóm rao giảng, các ông thưa với Đức Giê-su : "Ai đã cho phép những người ấy nói nhân danh Thầy ?". Lời đáp của Đức Giê-su cho thấy chính Chúa Cha cho phép.

Giảng thuyết từ lối sống chứng nhân

Chúng ta thu thập đầy đủ kiến thức, những suy tư thần học. Chúng ta chuẩn bị rao giảng thật hăng say. Nhưng trong linh hồn không có sức sống của Thiên Chúa, thì những lời giảng chỉ là tiếng kêu trống rỗng, không nội dung. Người nghe sẽ bình phẩm như sau : "Nghe thiên hạ nói... Tôi thấy họ nói... Người nào đó có kinh nghiệm nói rằng...". Việc rao giảng không phải trình bày các giả thiết, giả định thần học, mà là làm chứng cho chân lý một cách minh bạch. Trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi giáo đoàn Cô-rin-tô, Người đã khẳng định : "Bởi tôi tin, nên tôi nói". Việc giảng thuyết có sức mạnh thuyết phục không phải bằng lời nói mà chủ yếu bằng việc làm, để minh chứng điều mình nói thực sự có mặt trong lòng mình. Lúc ấy cần đến sự can đảm và dấn thân sống những lời đó trước mặt thiên hạ. Chúng ta trở thành những chứng nhân bảo đảm Lời Thiên Chúa trước mặt người nghe. Xin luôn nhớ rằng chúng ta nhờ Thần Khí Chúa mà nói và chỉ công bố Thánh ý Người. Đã có nhiều thừa sai dâng hiến mạng sống khi làm việc này. Như thế, sống chứng nhân cần rất nhiều lòng can đảm. Ngày nay, có rất nhiều cái chết vì dám nói lên chân lý của Thiên Chúa hoặc bị tù tội, mất công ăn việc làm, bị trù dập. dẫu sao can đảm vẫn là căn bản.

Huấn luyện chu đáo

Khi đã có kinh nghiệm về Thiên Chúa, có suy tư thấu đáo về cuộc đời, chúng ta ý thức được mình đang sống trước mặt Thiên Chúa. Nhưng cần phải minh chứng cho Đức tin sống động đó?khi đối thoại với tha nhân. Cần phải chuẩn bị cho những cuộc đối thoại. Với lòng tín thác, thánh Đa Minh đã sai phái anh em tiên khởi tới những trung tâm học vấn để tham gia vào những cuộc tranh luận triết học và khoa học thời đó. Các tu sĩ ấy đã được chuẩn bị kỹ lưỡng để nói bằng ngôn ngữ thời đại những vấn đề liên hệ đến xã hội. Ngày nay, xã hội thay đổi hằng ngày, các vấn nạn ngày càng trở nên hóc búa. Nhưng dưới nó vẫn là chân lý ngàn đời dù mặc nhiều màu sắc khác nhau. Thế thì vẫn có một lời giải đáp cho mọi vấn đề của mọi thời đại. Chân lý là chân lý của Chúa, không thay đổi và không bao giờ tương đối.

Back to Top

Chương 7 : GIÁO DÂN GIẢNG THUYẾT... MỘT CƠ HỘI

Giáo dân giảng thuyết trong xã hội ngày nay là một cơ hội thuận tiện tạo ra những hình thức, những con đường mới cho việc rao giảng, mang lại nhiều ích lợi cho Giáo Hội nhất là khi chúng ta biết lên kế hoạch, biết những hạn chế cũng như những lợi điểm.

Trong một dòng như dòng Anh Em thuyết giáo, với tư cách là một gia đình, việc giúp lên kế hoạch cho anh chị em giáo dân là những người có cùng một đoàn sủng rao giảng và cùng chia sẻ một sứ vụ, thì việc giảng thuyết mở ra một chân trời rộng lớn hơn nhiều.

Muốn được vậy, chúng ta cần phải phân ti?h và nhận ra tiềm năng của Dòng để xem xét sự đóng góp cho tương xứng. Việc này đặc biệt cung cấp những kinh nghiệm để biết lắng nghe và chia sẻ với những người thường xuyên rao giảng và cả những người nỗ lực tìm hiểu xã hội, tìm hiểu sống Đức tin.

Ước chi người trẻ ưu tiên giảng cho giới trẻ, người có gia đình giảng cho giới gia trưởng, công nhân giảng cho giới thợ thuyền thì đó là cơ may tiếp cận lớn lao nhất.

Nếu chúng ta cố gắng phát triển việc huấn luyện cho giáo dân rao giảng về lượng lẫn phẩm thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ có một tương lai khác hẳn. Chúng ta sẽ có nhiều ơn gọi hoàn hảo hơn cho gia đình Đa Minh, sẽ có nhiều nhà giảng thuyết vừa đa dạng vừa đông đảo phục vụ cho xã hội đa dạng và đông đảo hiện nay.

Việc giáo dân giảng thuyết có thể mang đến cho thế giới những đóng góp nhằm xây dựng một trật tự thế giới được soi sáng bởi Tin Mừng và với niềm hy vọng Thiên Chúa ban, khởi từ chính những người đích thân sống kinh nghiệm hằng ngày trong xã hội và kinh tế còn giới hạn. Những giảng viên đó nêu cao tầm quan trọng và ý nghĩa mới về lao động với một cái nhìn lạc quan hơn, đượm tính Tin Mừng qua những thực tế họ sống.

Nhiều khi họ phải gõ cửa nhiều nơi để xin một công việc hay được nhận vào một chỗ làm với mức lương không xứng. Cũng có khi người ta được nghe rao giảng về hoà bình từ những người có kinh nghiệm về một xã hội đang bất ổn. Trong lo âu, họ hy vọng được trở về nhà bằng yên với thân bằng quyến thuộc. Họ cũng có thể là nhà giảng thuyết về niềm hy vọng từ thực tại tối tăm ngày ngày phải gánh chịu thuế khoá nặng nề, nợ nần bất công của các chính phủ hay các tổ chức kinh tế quốc tế. Những gánh nặng này dần dần làm xói mòn các giá trị của cuộc sống, tác hại đến tương lai con cái cùng gây nên cái ấn tượng phải cầm cố, thế chấp từ thập niên này qua thập niên khác.

Vì vậy, khi nghe giáo dân giảng thuyết người ta dễ hiểu hơn, ngôn ngữ quen thuộc hơn, kinh nghiệm những lối sống gần gũi hơn mà không cần tới một lời giải thích. Người ta cũng có thể dễ hiểu những lý lẽ của các câu hỏi "tại sao" gặp thấy trong Tin Mừng, lý lẽ này cho họ một lối sống cải hoá cuộc đời mình.

Giáo dân rao giảng còn cung cấp một viễn tượng khác nữa, là trình bày Đức Ki-tô như người giải phóng giữa các thực tại khác nhau, mà trong đó đôi khi gặp những cảnh nô lệ hay lừa đảo rất tinh vi mà giới giáo sĩ không hề biết tới. Trong khi tìm kiếm chân lý, giáo dân còn có thể vạch rõ những biến chuyển nội tại của một xã hội có nhiều thông tin và kế hoạch đòi hỏi sự chính xác cao độ. Giáo dân giảng thuyết còn cho phép người ta sống đời hôn nhân với những khó khăn của nó, từ đó người ta hiểu ra tầm mức quan trọng sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong đời sống vợ chồng và con cái.

Giáo dân giảng thuyết là một hình thức khác để trình bày cho thế giới việc chia sẻ Tin Mừng giữa những bận rộn và trách nhiệm sinh hoạt gia đình như nhà cửa, lao động, con cái và xã hội. Mặc dầu thời giờ người giáo dân dành cho Chúa rất là vắn vỏi. nhưng đối với giáo dân đã được huấn luyện và có ý thức về trách nhiệm, thì đây là hoàn cảnh để củng cố tiềm năng và hiệu quả của mình. Giáo dân giảng thuyết còn cung cấp cơ hội để chia sẻ Lời Chúa trong những giây phút nghi ngờ hay tỉnh ngộ và cả trong những giây phút được Đức tin, Đức Cậy soi sáng.

Một trong những lợi điểm quan trọng nhất của việc giáo dân rao giảng là họ có khả năng thấu hiểu và thích ứng mau lẹ trong những lãnh vực mấu chốt của xã hội, của toàn cầu như kinh tế, chính trị, văn hoá, kỹ thuật, nghệ thuật,... mà họ có ảnh hưởng trực tiếp đến các lãnh vực đó và đưa ra những quyết định để thay đổi. Đồng thời, cũng mở ra khả năng tác động qua lại giữa cuộc sống hằng ngày và Đức tin.

Điều này làm cho nội dung giảng thuyết của chúng ta trở nên dễ hiểu hơn. Giáo dân rao giảng là trái tim của thế giới giữa lòng Giáo Hội, là sự hiện diện của Giáo Hội giữa lòng thế giới. Nó là cơ hội tốt duy nhất chúng ta không nên lãng phí. Thực hiện tốt công việc theo đường hướng này phản chiếu trực tiếp khả năng hoán cải của Tin Mừng nhất là trong một thế giới đang kiếm tìm.

Chương 8 : GIẢNG THUYẾT BIẾN ĐỔI CUỘC ĐỜI GIÁO DÂN

Một điều căn bản mà giáo dân cần phải biết là trong Tin Mừng có một thực tại uyển chuyển để sống và để chia sẻ Lời Chúa. Đồng thời cũng là nguồn suối bất tận để suy gẫm, đặc biệt khi phải đối phó với những thách đố hằng ngày . Cuộc sống mỗi ngày luôn luôn được thẩm định lại trong môi trường Đức tin. Việc tác động qua lại giữa Đức tin và môi trường sống sẽ giải đáp những khó khăn hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Ngày nay, các đề tài tranh luận có tính cách toàn cầu cần đến nhiều chuyên viên giáo dân trong các lãnh vực : di truyền học, bảo tồn sự sống trong đông lạnh, v.v... Những giáo dân này nhất định phải được huấn luyện kỹ càng về Đức tin. Họ là những người sẽ lập những dự án hữu ích, ảnh hưởng đến toàn xã hội. Cho nên kiến thức Tin Mừng của họ sẽ giúp họ đưa ra những lý lẽ phù hợp và sinh động.

Trong lãnh vực kinh tế - xã hội, những dự án hiện đại đã gây ra nghèo đói, túng cực hơn là mang lại phúc lợi cho phần đông dân chúng. Phải chăng có điều gì còn thiếu sót trong các dự án đó, tính nhân đạo chẳng hạn. Hiện thời vấn đề nợ quốc tế mà từng trăm quốc gia phải gánh chịu, vẫn chưa có lối giải quyết tiện lợi. Hàng ngàn vạn người vẫn còn phải di cư tìm kiếm việc làm với bất cứ đồng lương nào ! Vậy thì còn hàng trăm lãnh vực cần đến các giáo dân chuyên môn, biết kế hoạch của Thiên Chúa để chia sẻ những quan điểm như tính công ích, tình huynh đệ, tính cộng đồng,... giúp con người ý thức về sự siêu việt của xã hội loài người mà nhân loại được kêu gọi tới, để rồi trình bày cho thế giới những kiểu mẫu kinh tế mang tính chất nhân đạo hơn.

Không có tính áp đặt hay nhồi sọ, giáo dân giảng thuyết mang một sức sống sinh động độc nhất cho nhân loại và trở thành việc đối thoại tự do chân chính kêu gọi suy tư và tìm kiếm. Đây là một cơ hội tốt phát sinh nhiều giải đáp cho cuộc sống, song song với những kế hoạch cho tương lai dưới ánh sáng của Tin Mừng.

Trong những năm sắp tới, xã hội sẽ có rất nhiều vấn đề. Để giải đáp cho những vấn đề tương lai đó thì hiện nay, nhiều kinh nghiệm, dự kiến và kế hoạch phải được thai nghén để làm nên lịch sử cho ngày mai. Như thế, giáo dân tham gia vào các lãnh vực xã hội là điều rất quan trọng và cần thiết để đưa ra những kế hoạch phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Xét như thành phần của Giáo Hội, đặc biệt thành phần Dân Chúa, còn nhiều điều phải nói về giáo dân, về sự hiện diện khẩn thiết của chúng ta. Vì vậy, giáo dân cần phải được chuẩn bị để có được những tiếng nói xác đáng mang lại những giải đáp tốt đẹp.

Cầu nguyện, chóp đỉnh của việc giáo dân rao giảng

Việc huấn luyện chu đáo cho phép đẩy lui những sợ sệt và cho phép chuyển đạt Lời Chúa cách trung thành hơn. Nhưng để có thể rao giảng đắc lực, không sợ sai lầm thì cần vun trồng đời sống cầu nguyện, cầu nguyện liên lỉ, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Thánh Đa Minh đã làm như vậy. Ngoài nền học vấn có hệ thống về thần học, văn hoá, nhân bản, Người còn bận tâm rất nhiều đến đời sống cầu nguyện của anh em. Chỉ khi nào chúng ta được củng cố vững chắc trong đời sống cầu nguyện, chúng ta mới đủ can đảm đối thoại và xông pha vào các nền văn hoá, mà không sợ đánh mất các nguyên lý nền tảng. Lời cầu nguyện củng cố Đức tin, giúp quân bình đời sống, tránh việc trừu tượng hoá Thiên Chúa làm cho chúng ta xa lánh nhau, duy lý hoá Đức tin làm cản trở đời sống thiêng liêng.

Tìm kiếm chân lý là thái độ tốt để hiểu được thần học dưới ánh sáng của các thực tại. Chiêm niệm và quan sát kỹ các sinh hoạt phố xá, môi trường thiên nhiên, tương quan đời sống nhân loại luôn luôn đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa và dấn thân với người đời. Việc tìm kiếm Thiên Chúa được diễn ra hằng ngày khắp mọi nơi dưới mọi hình thức. Từ đó phát sinh nhiều lời giải đáp cần thiết cho suy tư xã hội. Không chiêm niệm thì không phải là thành phần của Gia đình Đa Minh. Chúng ta chiêm niệm Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong sinh hoạt của thế giới, trong xã hội bình thường. Nhưng điều quan trọng là chia sẻ với người khác điều chúng ta đã chiêm niệm, suy nghĩ và học hỏi.

Người giáo dân giảng thuyết đòi hỏi ý thức rằng lời cầu nguyện là nền tảng để có thể cảm nghiệm về Thiên Chúa và để lời giảng có sức thuyết phục. Cầu nguyện thành khẩn và liên tục. Một tu sĩ Đa Minh, thầy Mi-ca-en Ca-sa-li ở Bô-lô-nha, nói : "Hãy xin, hãy xin, hãy xin một cách tha thiết". Phần lớn những câu trả lời cho các đòi hỏi của thế giới cần một kiến thức sâu sắc về Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể đạt được những kiến thức này nhờ đối thoại với Người. Việc cầu nguyện này còn là việc cầu nguyện của cộng đoàn. Thánh Đa Minh đã khuyến khích một nhóm phụ nữ tại Prouille, bên Pháp, cầu nguyện liên lỉ cho việc giảng thuyết của anh em. Cùng với thời gian, nhóm phụ nữ này đã trở thành các nữ đan sĩ Đa Minh. Hiện nay họ có mặt trên khắp thế giới trong các đan viện cầu nguyện. Như vậy, Cha thánh đã nhận ra sự cần thiết của sự cầu nguyện trong sứ vụ rao giảng, hơn nữa Người còn cho đó là điều cơ bản trước mọi thách đố của thế gian.

Thánh Phao-lô, vị Tông Đồ mở mang Ki-tô Giáo cho các nước châu Âu, trong thư gởi giáo đoàn Cô-lô-sê đã viết : "Đồng thời, cũng hãy cầu nguyện cho chúng tôi nữa, xin Chúa mở cửa cho chúng tôi rao giảng lời Người, để chúng tôi loan báo mầu nhiệm Đức Ki-tô" (Cl 4,3) ; hay những lời khác : "Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi để lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh" (Tx 3,1).

Trong thư gởi giáo đoàn Ê-phê-sô, thánh Phao-lô viết : "Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể các thánh. Anh em hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng" (Ep 6,18-19).

Không thể là phần tử Đa Minh mà không cầu nguyện. Người giáo dân Đa Minh phải biết rõ điều đó. Đời sống cầu nguyện bắt đầu từ sáng sớm.  Chúng ta không thiếu lời để cầu nguyện với Thiên Chúa trong mọi lúc : chia sẻ với Người những nhọc nhằn, những thành tựu và cả những thất bại của chúng ta. Chúng ta cầu xin Người mọi điều cần thiết, một lần và hàng ngàn lần. Chúng ta cảm tạ Chúa về những ơn mà chúng ta đã nhận được suốt ngày.

Thuyết giảng cần phải dựa vào Lời Chúa :

Lời Chúa có tự khởi nguyên và có khả năng hoán cải con người. Lời Chúa không phải để nghe, mà là gây suy nghĩ, biến đổi, soi sáng, thuyết phục, ban nghị lực, xây dựng và mời gọi nhân loại. Đó là điều chúng ta luôn phải ý thức. Bởi lẽ những gì chúng ta chia sẻ, sẽ sinh hoa kết trái quá sự mong ước của chúng ta. Lời Chúa luôn luôn tác động, không thể bị xiềng xích, không thể bị kết tủa trong các định nghĩa. Lời Thiên Chúa luôn tự do và có sức giải phóng vì là Lời Sự Thật. Thời gian đã minh chứng Lời Chúa có sức biến đổi địa lý, thăng tiến lịch sử và thay đổi cuộc đời. Không hiếm người dâng hiến cho lý tưởng mà họ khám phá ra từ Lời Chúa. Lời Thiên Chúa gây âm vang trong mọi thời đại, mọi địa điểm và trong tất cả mọi người. Vì Lời Thiên Chúa là chân lý, một chân lý phi thời gian. Chân lý đó sẽ gây âm vang nơi người này, gọt giũa nơi kẻ khác và vượt trên lợi ích những kẻ khác nữa.

Cậy dựa vào Chúa Thánh Thần

Trong Tin Mừng, các Tông Đồ cảm nhận được Thiên Chúa qua hình dạng của Đức Giêsu Kitô. Các vị trực tiếp nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa cách thể lý. Họ cùng chia sẻ những nhọc nhằn, những ưu tư, sợ sệt và những ước muốn với Đức Giêsu. Họ được Người dạy dỗ, giải thích các dụ ngôn. Họ đồng hành với Người trong hành trình rao giảng. Họ nghe những lời hằng sống thốt ra từ chính miệng Người. Họ hiểu nhiều điều nhưng cũng có nhiều điều họ chẳng hiểu nổi.

Cùng với Chúa Giêsu, các Tông đồ từng trải nghiệm sự nản lòng, thối chí khi dân chúng tẩy chay hoặc không hiểu Giáo lý của Thầy mình. Họ sợ hãi khi người ta coi Thầy mình như tên phản bội nguy hiểm. Họ rùng mình khi nghe các phán quyết của tòa án về Chúa Giêsu. Những phán quyết kết án Chúa Giêsu có tội chỉ vì Người đã đưa ra những nhận xét có vẻ khác lạ với lối sống thường nhật.

Cùng với Chúa Giêsu, các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự, can đảm dấn thân vào các cuộc giảng đạo đầy phiêu lưu. Các vị đã chứng kiến được tinh thần cầu nguyện của Chúa, thấy Thầy mình bị hành xích, bắt bớ, bị treo, bị chết nhục nhã. Và các vị cũng đã có một kinh nghiệm lớn về việc gặp gỡ Chúa Phục Sinh và được Người sai đi cũng như được nghe Chúa hứa sẽ trở lại. Sau cùng, khi Chúa về trời, các Ngài lại cảm nhận thấy sự cô đơn, lo âu và bất lực trước một sứ vụ lớn lao.

Nhiều vị đã trốn tránh vì "Người không còn". Đứng trước một Đế quốc ngoại giáo, một đất nước chẳng cần biết đến Thiên Chúa, cũng chẳng muốn thay đổi để đạt hạnh phúc đích thực dựa trên mầu nhiệm Phục sinh. Trước một xác tín phải thay đổi cục diện, trước quãng đường xa mù đến với các dân tộc, các nền văn hoá khác nhau, các Tông đồ cảm thấy tuyệt vọng.

Tuy nhiên, họ đã tụ họp lại và Chúa Giêsu đã giữ lời hứa : "Thầy sẽ cử Thánh Thần xuống và Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Chính biến cố Hiện xuống và sự hiện diện của Chúa Thánh Thần cho phép chúng ta nhận ra rằng chỉ một mình Thiên Chúa đã đủ, đủ một cách toàn vẹn. Bởi vì sau đó, các Tông đồ mạnh dạn đứng lên giảng thuyết, tổ chức cộng đoàn, sắp đặt hàng ngũ, củng cố cầu nguyện, phụng vụ, tham dự lễ bẻ bánh, hiệp nhất, chia sẻ của cải và quan trọng nhất là can đảm thi hành sứ vụ với thái độ hoàn toàn khác. Các vị bắt đầu tích cực hoạt động truyền giáo, thiết lập giáo đoàn, phân chia trách vụ, cắt đặt cơ cấu Giáo Hội địa phương và nhận mình là thành phần của cơ cấu ấy. Tất cả đều dấn thân truyền giáo, giảng thuyết. Từ lễ Ngũ Tuần, họ nhận lấy Chúa Thánh Thần, họ cảm nghiệm Thiên Chúa thực sự ở giữa họ hôm nay và cho đến tận thế. Cho nên họ mạnh dạn truyền Đạo cho người Hy Lạp, người La Mã. Ngày ngày có thêm nhiều tín hữu hạnh phúc vì đã hiểu biết Tin Mừng.

Công đồng Vaticanô II nói : "Cũng như nhờ Chúa Thánh Thần, mà tiếng nói sống động của Tin Mừng vang dội trong Giáo Hội, và nhờ Giáo Hội vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho lời Chúa Kitô tràn ngập trong lòng họ". (Mặc khải số 8). Trong Tông huấn "Loan báo Tin mừng", Đức Phaolô VI cũng nói : "Chúa Thánh Thần làm cho Thánh Phêrô, Gioan, Phaolô và các Tông đồ khác lên tiếng, bằng cách linh ứng những lời mà các Ngài phải nói. Người cũng ngự xuống trong lòng các thính giả. Chúa Giêsu hôm nay cũng là một Chúa như hồi Giáo Hội sơ khai, vẫn hoạt động nhờ mọi người loan báo Tin Mừng, những kẻ đã biết hiến dâng thân xác linh hồn để Người chiếm hữu và điều khiển. Người đặt vào môi miệng họ những lời lẽ mà tự thân họ không thể tìm ra". (Số 75)

Không thể rao giảng : Nếu không có ý chí và quyết tâm.

Trong đời sống cá nhân, chẳng có gì xẩy ra nếu không có sự ưng thuận của chúng ta. Thuận ý cho Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời sống, đồng nghĩa với việc chấp thuận Chúa Thánh Thần hiện diện không chỉ trong "các bài giảng" mà còn đồng ý để Người hướng dẫn trở nên nhân chứng thật sự trước mặt mọi người qua việc đáp trả mau lẹ lời mời gọi của Chúa Giêsu : "Hãy theo Thầy".

Điều đó có nghĩa là chúng ta cống hiến ý chí và ước vọng làm cho bản thân mình thành một cuộc hành trình hoà giải liên lỉ ; là quét dọn hàng ngày ngôi nhà mình để Thiên Chúa cư ngụ ; là đổi mới cuộc đời, từ bỏ lỗi lầm khi cần sửa sai ; là thăng tiến cuộc đời không ngừng về Đức tin cho dù đôi khi còn do dự ; là cảm nghiệm ơn Chúa Thánh Thần, bất chấp các khó khăn, lo sợ hay bất lực trước các thách đố mới ; là một chí một lòng giảng thuyết. Có như vậy, Chúa Thánh Thần mới cùng đồng hành với chúng ta trong sứ vụ rao giảng.

Bước vào thế kỷ 21, giảng thuyết là làm cho thiên hạ nhận ra chúng ta là những người được Thiên Chúa sai đi. Chúng ta không nhồi nhét một học thuyết mới, cũng không quảng diễn những suy tư cá nhân mà là thực thi sứ điệp Chúa đã uỷ thác qua sự chuẩn nhận, củng cố và nhất là qua sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.

Cảm hóa sẽ không thành công khi chỉ dùng lời nói suông. Cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng thêm sức mạnh cho hành trình của chúng ta. Khám phá ra ý nghĩa chân thực của giảng thuyết đòi hỏi một quá trình liên tục. Thực ra, chúng ta không bao giờ hiểu hết và sống trọn vẹn mọi khía cạnh của giảng thuyết. Giảng thuyết mang theo mình yêu sách của Thiên Chúa, đòi hỏi ngày càng phải sống triệt để theo Tin Mừng. Lời Chúa hiện diện cụ thể qua mỗi con người được sai đi rao giảng trong một thế giới đòi hỏi hội nhập văn hoá. Không phải là một lời nói trừu tượng, nhưng là chân lý đã hoá thành sự sống thâm nhập vào thực tại xã hội. Biến đổi con người từ bên trong, không phải chỉ như những qui tắc điều khiển cách ăn nết ở bên ngoài, lại càng không phải chỉ là những lời ngăm đe, doạ nạt hay hứa hẹn phần thưởng, hình phạt. Rao giảng phải là sự xác tín tuyệt đối vào Lời Chúa bằng cách phân biệt rõ giới hạn của các thực tại hàng ngày, nhờ đó có thể thích ứng để biến đổi. Rao giảng là một lời mời gọi liên lỉ khám phá thế nào là công ích, công thiện để làm nền tảng đời sống chung. Giảng thuyết là khám phá ra chân lý do chính Chúa mạc khải cho dân chúng mà ta phục vụ, họ là những hạt giống của Lời Chúa.

Rao giảng thuyết phục

Giảng thuyết không những thuyết phục thính giả tìm kiếm sự thật, mời gọi họ tự cật vấn lương tâm trước những đòi hỏi của Tin Mừng, mà còn gây ảnh hưởng trên chính người giảng thuyết. Đức Giê-su đã cứng rắn với một số người biệt phái, Người nghiêm khắc khiển trách họ : "nói mà không làm" (Mt 23,2-4). Họ không sống Lời Chúa nên họ phải nương dựa vào những lời đe loi, những giáo điều khô cứng. Có thể nói, họ không hề giảng thuyết mà đúng hơn chỉ như con vẹt nhắc lại những điều đã nghe, đã đọc hay đã thuộc lòng. Họ nhắc lại từng chữ, từng khoản luật cách điêu luyện khiến người nghe ngạc nhiên, thán phục. Họ hiếu thắng trong các cuộc tranh luận, cố gắng trình bầy một sự cương quyết, xác tín, sử dụng tối đa các phép biện chứng để đè bẹp đối phương. Nhưng thật ra, họ chẳng hề rao giảng, chẳng hề phục thiện thay đổi nếp sống. Họ chỉ trao đổi trí tuệ, tư tưởng chứ chẳng hề trao đổi những cảm nghiệm sống. Tương tự ngày nay, người ta biết cách thu phục thính giả, biết cách thu lượm nhiều tiếng khen. Người ta sử dụng các phương tiện truyền thông, micrô, máy ghi âm, Internet, nhưng hình như cuộc sống không hề thay đổi. Thật là vô ích. Những kỷ thuật đó không phải là rao giảng Tin Mừng.

Bao lâu, người ta dùng lời nói, kiến thức thần học như là dụng cụ, phương tiện dành cho các cuộc đấu lý, thì dù những kiến thức đó có mang lại "chiến thắng" đi chăng nữa, những lời đó vẫn không phải là những lời giảng thuyết, vì nó không mang lại những lời giải đáp cho những vấn đề trong cuộc sống, không đảm bảo đời sống cho con người. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô, thánh Phao-lô viết: "Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng" (Cr 9,13).

Rao giảng Tin Mừng đích thực sẽ sinh nhiều hoa trái và có mùa thu hoạch. Lời Chúa gieo vào tâm hồn sẽ nảy nở, phát triển, sẽ sinh hoa kết trái đúng thời đúng vụ. Chính Thiên Chúa sẽ thu hoạch. Công việc của chúng ta là gieo vãi với một sự cố gắng, tận tâm và có suy nghĩ. Mỗi người chúng ta cũng là thành quả của Lời rao giảng. Các bậc cha anh cũng đã đổ bao xương máu, nước mắt để gieo Lời Chúa vào lòng chúng ta. Những bông hạt đang lớn trong chúng ta, trong mọi người không phải để cất giấu, để thu vào kho, song phải được gieo vãi, nếu không nó sẽ bị chất đống, bị mục nát.

Giảng thuyết phải lan truyền từ người này sang người khác

Lời rao giảng sống động có sức lan truyền từ người này sang người khác. Giảng thuyết hàm chứa những lời nói, những tình cảm bắt nguồn từ Thiên Chúa thông chuyển tới con người. Cho nên, đó là lời mời gọi đầy tình yêu hơn là lời doạ nạt, ngăm đe. Lời giảng thuyết làm chúng ta luôn bận tâm đến tha nhân, đến mọi đối tượng, kể cả Thiên Chúa.

Lời Chúa và hoạt động của con người là hai yếu tố đan kết trong sứ vụ giảng thuyết. Đức Giê-su đã lấy kinh nghiệm lao nhọc của các mục đồng, nông gia, thợ thuyền để lời rao giảng được sâu sắc hơn. Giảng thuyết không phải là tiếng phán từ trời vang tới người nghe, mà đúng hơn là Lời Thiên Chúa được vang lên từ những việc làm của người đoan chính. Những lời này đã cải thiện thế gian từ ngày này qua ngày khác. Rao giảng kiểu này sẽ minh bạch, hiện đại, sinh động và có tính thuyết phục thính giả hơn. Vì thế, quá trình Tin Mừng hoá sẽ rộng rãi hơn, bởi người được nghe Tin Mừng lại trở thành người loan báo Tin Mừng (x. Tông huấn "Loan báo Tin Mừng").

Giảng thuyết là đối thoại chân tình

Đối thoại là chìa khoá khai mở niềm cảm thông ; đối thoại sẽ loại trừ được thiên kiến, ngăn cách nếu như mục đích của nó là để hoà hợp, để chia sẻ, chứ không phải để so sánh, để gây bè phái. Lời Thiên Chúa để vãi gieo, chứ không phải để giấu kín, giữ trong kho. Không ai được phép lựa chọn thính giả, chia sẻ cho ai và không cho ai, cũng không được phép ngăn cản người ta đón nhận. Mọi người nam nữ, già trẻ, giàu nghèo đều có quyền đón nhận. Kẻ ở xa Giáo Hội nhất, lại là người cần đón nhận sứ điệp Lời Chúa nhất. Kẻ hoài nghi Thiên Chúa nhất lại là người cần tìm kiếm Người nhất. Kẻ sống theo ý riêng mình, có lẽ sẽ là người thấy mình sai lầm nhất. Thiên Chúa không có rào cản, thì chúng ta cũng đừng đặt ra những rào cản trong những thiên kiến, những quan niệm chủ quan của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến thánh Phao-lô, thánh Âu-gút-ti-nô và nhiều vị khác trong Giáo Hội làm thí dụ. Nhiều khi chính trong hoàn cảnh tội lỗi, chúng ta mới cảm nhận được sức mạnh của Lời Chúa. Không có người nào, vật nào có thể làm di hại Lời Chúa. Chúng ta phải nghĩ đến tương lai, một tương lai làm cho chúng ta gần với mọi người, mọi tôn giáo, mọi tín ngưỡng và mọi tấm lòng mong tìm về với chân lý. Chúng ta phải khẳng định không ai độc quyền về Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần muốn thổi đâu thì thổi và muốn mặc khải cho ai tuỳ ý. Người không cần thỉnh vấn chúng ta về việc này.

Sứ vụ của người giáo dân : Trách nhiệm kép của Giáo dân Đa Minh :

Hiến pháp Nền tảng người Giáo dân Đa Minh số 4 minh định : "Tham gia sứ vụ Tông đồ bằng cầu nguyện, học hỏi và giảng thuyết theo khả năng giáo dân", và số 12 : "Mọi phần tử Đa Minh phải sẵn sàng để rao giảng Lời Chúa, việc giảng thuyết này là thi hành chức năng ngôn sứ của người đã được rửa tội". Tông huấn "Người Ki-tô hữu Giáo dân", số 34 viết : "Có thể thực hiện được điều đó, nếu nơi chính mình, người tín hữu biết lướt thắng mọi phân cách giữa Tin Mừng và cuộc sống, bằng sự phối hợp lại thể thống nhất giữa Tin Mừng và cuộc sống sinh hoạt thường nhật, gia đình, lao động và xã hội". Sau đó còn thêm: "Đừng sợ gì cả, hãy mở toang hết mọi cửa để đón nhận Đức Giê-su vào và quyền năng cứu độ của Người vào, hãy mở mọi biên giới quốc gia, mọi hệ thống kinh tế cũng như chính trị, mọi lãnh vực rộng lớn của văn hoá, văn minh, phát triển. Đừng sợ, Đức Ki-tô biết điều gì đang diễn ra trong tâm hồn người ta. Duy mình Người biết. Ngày nay thường con người không biết điều gì đang diễn ra trong tâm hồn mình".

Hiện nay, vì nhận ra cần có một cuộc Tân Phúc Âm, Giáo Hội không thể khước từ sứ vụ trường kỳ là mang Tin Mừng đến cho hàng triệu triệu người nam nữ chưa nhận biết Đức Ki-tô - Đấng cứu độ nhân loại... cho nên công việc của anh chị em giáo dân hiện nay trở nên cần thiết hơn, cao cả hơn, dù rằng chưa bao giờ thiếu những anh chị em trong lãnh vực này. Thực vậy, mệnh lệnh của Đức Ki-tô : "Hãy đi khắp thế giới" vẫn được rất nhiều tâm hồn hưởng ứng" (KTHGD số 35). Số 4 HPNT còn nói rõ hơn : "Giáo dân, vì là thành phần của Giáo Hội, cho nên cũng mang ơn gọi và sứ vụ loan báo Tin Mừng".

Giảng thuyết theo gương thánh Đa Minh

Chúng tôi yêu mến họ, nên chúng tôi rao giảng.

Đối với mọi phần tử Gia đình Đa Minh, nhất là giáo dân, việc giảng thuyết phải phát xuất từ lòng trắc ẩn và bác ái theo gương Thánh Tổ phụ. Nhiệt thành loan báo Lời Chúa là dấu chỉ tình yêu đối với tha nhân. Trước những mâu thuẫn, những bất công, thánh Đa Minh khám phá ra nơi nhiều người thiếu sức sống của Thiên Chúa, nên đã nảy ra ý tưởng đi rao giảng chân lý cho các nước miền Nam Âu châu, nơi mà những tín hữu có đời sống Đức tin rất mơ hồ, thậm chí còn sai lạc. Họ sống như thể chưa biết mình được dựng nên, được yêu thương, được yên ủi. Các truyền thống tôn giáo đã biến mất theo thời gian. Các thuần phong mỹ tục cổ truyền không còn nữa. Thay vào đó là các tập tục, tệ đoan lan rộng trong các thành thị, các miền thôn quê. Cần phải canh tân, tìm lại đời sống Đức tin dưới ánh sáng Tin Mừng. Cần phải coi trọng những nền tảng, những nguồn gốc xa xưa để có thể trở về với thời tươi trẻ, hiện đại cho mỗi hoàn cảnh xã hội, cho mỗi con người.

Xuất phát từ tấm lòng đối với tha nhân, thánh Đa Minh nghiên cứu lập ra kế hoạch đưa Lời Chúa đến với họ. Vì thế, trước khi dạy bảo, Người đã trở nên người bạn cảm thông, khoan dung với họ. Thay vì khăng khăng giáo điều, Người tôn trọng nguyên lý cởi mở trong suy tư thần học. Trước khi xác định phạm vi hoạt động, Người đã chu du khắp Âu châu để xem xét tình hình. Thánh Đa Minh ưa thích rao giảng Thiên Chúa đầy lòng thương xót hơn là Thiên Chúa công thẳng. Người giảng thuyết với lòng thành thật và trung tín đối với Lời Chúa.

Chỉ khi nào yêu mến, hiểu biết thính giả và coi họ như những người anh em ruột thịt, chúng ta mới lắng nghe và rao giảng cho họ có hiệu quả. Dù có am tường Lời Chúa mà không có lòng khiêm tốn, cởi mở thì khó mà tha nhân chấp nhận lời chúng ta nói. Tổng hội Oakland đã viết : "Nếu lời giảng của chúng ta không dẫn đến cảm nhận và xác tín về niềm hy vọng thì là lời giảng vô ích".

Các phần tử của dòng Đa Minh không giảng về thánh Đa Minh mà là rao truyền Đức Giê-su trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi chốn, mọi thời gian. Giảng thuyết lữ hành là đặc tính của Dòng chúng ta. Cũng như thánh Đa Minh, Dòng đi tới những nơi có nhu cầu. Vì thế, Dòng đã có mặt ở mọi lục địa, và ngày nay nhiều người vẫn muốn rằng Dòng cần phải du thuyết nhiều hơn nữa, không những bằng đôi chân, mà còn bằng trí khôn, lòng đạo đức, vốn kiến thức,...Tư tưởng phải sinh động, uyển chuyển trong mọi môi trường văn hoá. Nguy hiểm biết bao nếu bám trụ vào quá khứ, không cởi mở với tương lai. Còn nhiều lãnh vực, nhiều miền đất, nhiều nền văn hoá cần sự hiện diện của chúng ta. Cần phải mau lẹ đem Lời Chúa vào những môi trường ấy.

Chúng ta rao giảng vì yêu mến những người ở xa, những người sống trong tuyệt vọng, những người không biết Thiên Chúa. Nếu không, Đức Bác Ái của chúng ta chỉ là tiếng "thanh la inh ỏi".

Giảng thuyết sẽ như thế nào nếu không có Đức Ma-ri-a ?

Ngay từ ngày khai sinh Dòng, Đức Ma-ri-a đặc biệt ưu ái đến các phần tử của Dòng. Hiển nhiên, có mối tương quan giữa Người và việc giảng thuyết của Dòng. Những lời ca, lời cầu nguyện của Dòng luôn có hình ảnh Mẹ. Đức Ma-ri-a luôn đồng hành và hằng cầu nguyện cho Anh Em Thuyết Giáo. Còn giáo dân chúng ta nhận thấy nơi Đức Mẹ một mẫu gương dấn thân vĩ đại. Mẹ đã đáp trả lời Thiên Chúa một cách tự tin, đầy can đảm và không e dè? Trong giai đoạn đầu của lịch sử Giáo Hội, Đức Ma-ri-a đã dẫn đầu, đã cùng các Tông đồ soạn thảo kế hoạch Tin Mừng hoá, một công việc đòi hỏi hy sinh, thử thách.

Để rao giảng hữu hiệu phải có Đức tin. Chúng ta cảm nhận nơi Mẹ một niềm tin sắt đá : "Người bảo thế nào thì làm như thế". Giảng thuyết cần phải biết cầu nguyện, Đức Ma-ri-a cũng dạy chúng ta biết kêu xin với Thiên Chúa. Chúng ta cần noi gương Mẹ Ma-ri-a, đón nhận ý Chúa như Mẹ đã làm dưới chân Thập Giá, biết nói tiếng "xin vâng" như Mẹ đã nói khi thưa cùng Sứ Thần : "Xin thể hiện nơi tôi như lời Sứ Thần truyền". Sẽ chẳng bao giờ nói hết về Mẹ, nếu chúng ta tiếp tục suy tư về những đóng góp của Mẹ trong các công việc của Giáo Hội, những cộng tác của Mẹ trong công cuộc loan báo Đức Ki-tô và trong những hoạt động làm sáng danh Người. Như thánh Đa Minh, điều cần lưu tâm là chúng ta biết phó thác vào tay Mẹ nhiệm vụ thuyết giảng. Có như thế, chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành quả tốt đẹp hơn và có nhiều phấn khởi trong khi thi hành nhiệm vụ.


Chương 9 : GIẢNG THUYẾT ĐỂ XÂY DỰNG NƯỚC THIÊN CHÚA

Xây dựng Nước Thiên Chúa là nội dung chủ yếu của việc rao giảng về "Đức Ki-tô thành Na-gia-rét". Đây là nhiệm vụ vĩnh viễn của Giáo Hội, chứ không phải là việc tông đồ hay hoạt động truyền giáo mang tính nhất thời. Đó là một lệnh truyền của Chúa Giêsu. Nói đến xây dựng tức là nói đến việc làm hơn là lý thuyết, hành động hơn là lời nói ; nghĩa là cần tham dự vào các sinh hoạt hàng ngày của Giáo Hội cách cụ thể. Chúng ta không thể xây dựng Nước Thiên Chúa từ những bất công, những chênh lệch, những tranh chấp và xung đột. Vì thế, việc quan trọng, cần thiết là phải nhổ tận rễ vấn đề này ra khỏi xã hội.

Tuyên truyền, hành động, đấu tranh cho công lý, cho hoà bình là việc phải làm trong xã hội hôm nay. Nhưng đối với Dân Thiên Chúa, những hành động này không cho phép dùng bạo lự?. Những tương quan kinh tế, xã hội, công bằng phải được dựa trên Sự Thật - một tiêu chuẩn vĩnh cửu. Cho nên, trong mọi lãnh vực hoạt động, người giáo dân phải loại trừ gian dối và bất công. Khi làm việc hay tham gia trong bất kỳ thể chế dân sự nào, họ có nhiệm vụ nói nên lời cảnh báo về bất cứ một hình thức bất công nào.

Lời giảng thuyết trong các lãnh vực đó phải trình bày rõ ràng sao cho thế giới hiểu rõ học thuyết xã hội của chúng ta, đồng thời ý thức được rằng giảng thuyết không phải là một phong trào nhất thời, không phải là cách thể hiện tình liên đới suông trước bất công, mà là một hoạt động liên tục được soi dẫn bởi Tin Mừng, được thúc đẩy bằng tình yêu, chứ không phải do bất bình. Đó là cách thể hiện tác vụ ngôn sứ của người giáo dân.

Lời giảng thuyết không phát sinh từ một phong trào hay một nhóm đột kích. Lời đó khởi đi từ tình yêu. Theo gương cha thánh Đa Minh, vì tình yêu chúng ta đi tìm gặp những tâm hồn lầm lạc. Vì thế, hãy đặt quyền lợi của họ lên trên hết. Tuy nhiên vì phải lệ thuộc tại những luật lệ, những trật tự trong xã hội nhằm duy trì đời sống chung, chúng ta cần điều hợp và tôn trọng các mối tương quan xã hội. Sự hiện diện của giáo dân trong những mối tương quan đó thật là hữu ích.

Trong sứ vụ rao giảng của Giáo Hội, trách nhiệm của người giáo dân có một sắc thái riêng, thiết thực hơn. Khi được huấn luyện, họ sẽ hiểu rõ hơn khía cạnh này và mỗi người sẽ tự ý thức rằng họ là những hạt giống làm nảy sinh công lý và hoà bình.

Giảng thuyết tìm về chân lý và bình an

Xây dựng bình an trong con người là xây dựng tinh thần bình đẳng từ lòng mến Chúa. Vì thế chúng ta được kêu gọi trở về lĩnh vực công lý. Làm sao chúng ta chứng tỏ được lòng mến Chúa, nếu không biết đến những đau khổ của những người bị gạt ra ngoài lề xã hội ? Làm sao chúng ta am tường được Lời Chúa mà chúng ta loan báo, nếu không ý thức rõ ràng Đức Giê-su đến để công bố hồng ân, giải phóng những người bị áp bức, mang Tin Mừng cho những người nghèo khó ? Xây dựng một Nước Thiên Chúa công bình là nội dung căn bản của việc giảng thuyết. Chúng ta thuyết giảng vì chúng ta ý thức rằng, các thính giả là con cùng một Cha và chúng ta là anh em với nhau. Quên điều này là lúc chúng ta trả lời câu hỏi : "Hỡi Ca-in, ngươi đã làm gì cho em ngươi ?" của Thiên Chúa, bằng lời đáp : "Con là kẻ canh giữ em con ư ?". Việc thuyết giảng ngầm hiểu lời cam kết sẽ làm phát sinh một xã hội công bằng. Một xã hội người ta có thể nói "Thiên Chúa thấy mọi sự tốt đẹp", một xã hội mà lời Đức Giê-su được thực hiện : "Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào". Hay ít ra cũng làm cho mỗi người được sống xứng đáng nhân phẩm căn bản của mình.

Đối tượng giảng thuyết của dòng Đa Minh là xã hội đương đại và nguồn mạch là đời sống chiêm niệm. Không thể coi mỗi con người như những cá nhân riêng lẻ, mà phải hiểu biết họ theo bối cảnh xã hội, nơi mà mỗi cá nhân đều có những mối tương liên chặt chẽ với nhau, có những nhu cầu vật chất, tinh thần. Cho nên, xây dựng Nước Thiên Chúa phải khởi sự từ những thực tại hàng ngày. Lời giảng của Phan-xi-cô de Víc-to-ri-a, Phêrô đờ Cót-đô-ba, Mông tê-xi-nô, Bát-tô-lô-mê-ô đờ Las Ca-sạt và nhiều vị khác đã không thể được thực hiện, nếu không phải là ở giữa lòng xã hội. Từ toà giảng, các vị không ngần ngại vạch trần những lạm dụng, bóc lột, bất công. Các vị không sợ hãi khi tố giác những tương quan bất chính, những áp bức của giai cấp quyền thế đối với giai cấp thấp cổ, bé miệng. Lời Chúa luôn đòi hỏi công lý và hoà bình. Những điều này không có dưới dạng làm sẵn, mà phải dày công xây dựng và bảo vệ. Hoà bình có tính năng động, chứ không phải là thụ động, kiểu yên tĩnh vì thiếu thốn. Chính ra sự bình an là dấu chỉ sự hiện diện sung mãn, hài hoà của mọi vật trong quân bình và công lý. Sự bình an của Thiên Chúa không phải là vắng mặt mà là sự hiện diện.

Không thể có giảng thuyết mang tính chất Đa Minh nếu không có lòng trắc ẩn, cảm thông. Linh mục Felicisimo Martinez, O.P đã viết : "Sự dấn thân cho công lý, như là dấu ấn cốt yếu của mọi nhà giảng thuyết, hàm chứa việc công bố rõ ràng những yêu sách mà công lý Nước Thiên Chúa đòi hỏi, lại cũng tố giác mọi tình trạng ngược lại với yêu sách của nước đó".


'Chương 10 : THAY LỜI KẾT

Khi Tin Mừng hiện diện thì làm cho con người trở nên sung mãn, sinh động, lương tâm được thanh tẩy và trở nên thánh thiện như Chúa Cha trên trời. Việc giảng thuyết được Lời Thiên Chúa và những thực tại xã hội nuôi sống ; được lời cầu nguyện và việc lắng nghe Lời Chúa bồi dưỡng. Việc giảng thuyết là một thách đố, một cơ hội may mắn, một phương tiện và một con đường, một bằng chứng đòi hỏi chúng ta phải nhiệt tâm sống theo "Đức Giê-su thành Na-gia-rét". Lời Thiên Chúa luôn luôn vĩnh hằng. Những phần tử gia đình Đa Minh phải coi giảng thuyết là hoạt động liên tục từng giây từng phút, là thái độ của tất cả mọi người chúng ta trong cuộc sống, những người đã biết khám phá ra gương mẫu của thánh Đa Minh chỉ nói với Thiên Chúa hoặc về Thiên Chúa.