Tôi nhớ hồi còn đi học ở trường Đồng Khánh Huế thì chiếc nón là một người bạn đồng hành không thể thiếu khi tới trường, mà phải là nón bài thơ cơ. Mỗi ngày tôi đội nón bài thơ có quai nón bằng vải nhung đen, mặc nguyên bộ áo dài mầu trắng, chân mang đôi guốc mộc với quai guốc có mầu trắng trong. Mà cô gái nào cũng thế, trông thật dịu dàng, yểu điệu và tha thướt.
Năm ấy, tôi vừa mua được cái nón bài thơ đẹp. Cái nón của tôi có bài thơ như sau:
"Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương."
Tôi cẩn thận viết tên mình lên nón để không nhận lộn nón với các bạn. Mọi người khi vào lớp thì phải để tất cả các nón ở ngoài hành lang. Hôm ấy chúng tôi làm bài thi lục cá nguyệt. Tôi làm bài dài quá nên về trễ. Lúc ra khỏi lớp thì chỉ còn lại có hai cái nón mà cả hai cái nón đều không phải là của tôi. Tôi hốt hoảng nên vội vàng chạy theo một cô bạn đi phía trước để xem cô ấy có lấy lộn nón của tôi không. Thế là cô bạn cho tôi xem nón thì ra đó không phải là nón của tôi. Nhưng tôi đã làm cho cô bạn buồn vì sự thiếu tế nhị của mình. Vậy mà sau khi xin lỗi cô bạn, tôi và cô ấy lại trở nên một đôi bạn chí thân. Cô bạn tôi tên là Tương Ngẫu.
Kỷ niệm đẹp nhất của tuổi trẻ chúng tôi là: Tương Ngẫu chịu khó chép thơ tình và nhạc tình trên giấy pelure mầu hồng, mầu xanh rồi đem tặng tôi. Tôi nhớ bạn tôi đã chép cả bản nhạc Paloma trên giấy nhuộm mầu tím, rồi viết thơ và nhạc bằng mầu trắng của hộp sơn mầu rồi ưu ái tặng tôi. Bạn tôi rất khéo tay và có tâm hồn nghệ sĩ. Tôi hồi tưởng lại mà tiếc nuối cái thuở học trò đầy hoa bướm, sông nước, ý nhạc, ý thơ và mộng ảo.
Rồi chúng tôi mất liên lạc. Trước khi Tương Ngẫu sang Mỹ, bạn ấy liên lạc với các bạn học khác để xin số điện thoại của tôi ở California. Bạn tôi theo chồng qua Hoa Kỳ theo diện H.O. Lúc đầu, bạn vất vả mở nhà hàng bán đồ ăn Huế ở vùng Chicago. Cách đây khoảng 10 năm, gia đình bạn tôi đã qua California thăm vợ chồng tôi. Chúng tôi mừng rỡ tay bắt mặt mừng, rồi tôi đưa gia đình cô ấy đi ăn món Huế. Xong cô ấy nhờ tôi lái xe đưa cô lên Chùa cúng dường ở vùng Anaheim. Rồi hai chị em mất liên lạc khá lâu. Chuyện nhận lầm cái nón làm cho tôi áy náy mãi nhưng bạn dường như đã quên từ lâu rồi.
Thế rồi sau khi đi vượt biên lần thứ nhất bất thành vào năm 1978 thì vợ chồng tôi mất việc làm vì nhà nước bảo rằng chúng tôi là thành phần phản động, không trung thành với nhà nước nên họ sa thải chúng tôi. Tôi đau buồn, không biết làm nghề gì bèn đi học nghề của chị hàng xóm là chằm nón lá. Học được một tuần thì tôi bắt đầu chằm được cái nón đầu tiên. Chằm nón không phải là chuyện dễ dàng mà lợi tức thì yếu kém. Chằm được một cái nón xong thì tôi bỏ nghề để đi buôn bắp, mía, và trái cây ở ngoài xa lộ Hàng Xanh, vùng Thị Nghè. Tôi còn theo chị hàng xóm khác để đi mua mít Tố Nữ ở Lái Thiêu về gánh bán nơi đầu đường xó chợ. Ôi không hiểu sao mà tôi có thể sống vững cho đến ngày hôm nay nếu không có Thiên Chúa phù trợ và chúc phúc?
Giờ đây trên đất Mỹ, tôi không đội nón bài thơ nữa nhưng là đội mũ. Tại sao lại đội mũ? Vì trong vòng ba tuần lễ mà không nhuộm tóc mầu đen thì đỉnh đầu của tôi có toàn là mầu muối tiêu mà muối nhiều hơn tiêu. Đó là bí mật chỉ có những người già mới biết mà thôi.
Cái nón đã đi vào thi ca lãng mạn của dân tộc Việt. Cái nón vừa che nắng vừa có thể làm quạt khi nóng nực. Có thể làm đồ đựng khi hái trái cây. Cũng có thể lót trên đất để ngồi. Nón dùng để che mặt khi mắc cở mà cũng có thể dùng để kín đáo liếc nhìn mà người ta không nhận ra.
Tôi xin gửi tặng quý vị lời thơ dễ thương sau đây:
"Anh gửi tặng nón bài thơ quê mẹ
Gửi cho em dòng sông cửa bể
cả vầng trăng và cả trời xanh
Nước dưới sông có khi đầy khi cạn
trăng trên trời khi tỏ khi mờ
Tình đôi ta từ bấy đến giờ
Vẫn tròn như chiếc nón bài thơ." (Lê Việt Hoà)
Kim Hà, 7/3/2021